Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 0 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Giá trị của tập Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc) SVIP
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Bố cục của văn bản Giá trị của tập "Truyện và kí" (Nguyễn Ái Quốc) có thể chia thành 2 phần với nội dung sau:
Trong đoạn văn:
Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện "khai hoá và công lí".
Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nào nổi bật nhất?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Trong các văn bản, các biện pháp tu từ, cách sử dụng từ ngữ, câu khẳng định, phủ định không nhằm xây dựng hình tượng nghệ thuật như trong văn bản văn học mà nhằm giúp tăng thêm sức , thể hiện được quan điểm, cách đánh giá của người viết.
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Nội dung chính của văn bản là:
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Tác phẩm Truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc chủ yếu nhằm thể hiện nội dung nào?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Phương pháp sáng tác nổi bật của Hồ Chủ tịch trong Truyện và kí là:
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Bút pháp sở trường của Nguyễn Ái Quốc trong các truyện và kí viết bằng tiếng Pháp là gì?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Đối tượng bị đả kích mạnh mẽ trong các truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc là ai?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Theo văn bản, Nguyễn Ái Quốc dùng tiếng Pháp trong sáng tác là vì:
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lố tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Hồ Chủ tịch biểu dương phẩm chất gì của nhân dân Việt Nam trong truyện và kí?
Nhận xét “Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu” của Phạm Huy Thông cho thấy đặc điểm nổi bật nào của tập truyện và kí do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Yếu tố nào khiến truyện và kí của Hồ Chủ tịch “được ưa thích vì đa dạng”?
Nhận định “Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng” thể hiện điều gì về Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Những hiểu biết “chi li hằng ngày” trong Truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc giúp tác phẩm:
Lối sáng tác phóng khoáng trong các tác phẩm truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc là:
Từ lối viết vừa dí dỏm vừa thấm đẫm tư tưởng của Hồ Chủ tịch, học sinh hôm nay có thể học được gì khi viết văn nghị luận?
Từ việc Hồ Chủ tịch kết hợp ngôn ngữ và văn hoá phương Tây với tinh thần dân tộc, học sinh có thể rút ra bài học nào?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Trong văn bản, tác giả Phạm Huy Thông đã triển khai luận điểm về giá trị tư tưởng của truyện và kí Hồ Chí Minh bằng cách nào?
GIÁ TRỊ CỦA TẬP TRUYỆN VÀ KÍ (NGUYỄN ÁI QUỐC)
Phạm Huy Thông
[...]
Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng cửa thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. [...]
Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay, lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.
Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ.
[...]
Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tô nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.
Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy có tạo nên những cảnh huống đã được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.
Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...
Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thực. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?
(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)
Tác giả dùng biện pháp tu từ nào để tăng tính thuyết phục trong bài viết?
Khi viết bài văn nghị luận về vai trò của văn học cách mạng, học sinh có thể học tập điểm gì từ cách viết của Phạm Huy Thông?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây