Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Luyện tập SVIP
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt sinh năm 1908, mất năm 2009. Ông là một học giả nổi tiếng với rất nhiều nghiên cứu đa dạng đề tài, ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới, luôn thể hiện một tầm nhìn toàn cầu về nhân loại, chống lại việc độc tôn văn minh phương Tây, bảo vệ sự đa dạng văn hóa và cảnh báo nguy cơ thiên nhiên bị hủy diệt.
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt là người nước nào?
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt sinh năm 1908, mất năm 2009. Ông là một học giả nổi tiếng với rất nhiều nghiên cứu đa dạng đề tài, ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới, luôn thể hiện một tầm nhìn toàn cầu về nhân loại, chống lại việc độc tôn văn minh phương Tây, bảo vệ sự đa dạng văn hóa và cảnh báo nguy cơ thiên nhiên bị hủy diệt.
Điều gì không đúng về tác giả Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt?
Các tác phẩm nào sau đây là công trình nghiên cứu của Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Pa-ra-na thuộc thể loại gì?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Pa-ra-na được trích từ tác phẩm nào?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Điền từ phù hợp vào chỗ trống.
Tác phẩm Nhiệt đới buồn được Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt viết sau khảo sát thực địa ở , nơi ông có cơ hội được tiếp xúc với nền văn hóa đang đứng trước nguy cơ bị hủy hoại. Bằng những quan sát và ghi chép tỉ mỉ, khách quan của một nhà nhân học, sự sâu sắc của một , Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt đã đặt ra nhiều vấn đề đáng suy ngẫm về mối quan hệ giữa con người với và về chính bản chất, lịch sử của nhân loại .
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Pa-ra-na là một bang nằm ở phía nào của Bra-xin?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Tác phẩm Pa-ra-na đã miêu tả cuộc gặp gỡ đầu tiên của tác giả với người dân tộc nào?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Tác giả đã gặp những người da đỏ ở Bra-xin và viết Pa-ra-na vào thời điểm nào?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phố biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Người Giê đã phải trải qua hoàn cảnh như thế nào?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Người Giê được chính phủ Bra-xin đưa vào các trung tâm định cư năm nào?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Những dữ liệu sơ cấp tác giả thu thập được về cuộc sống của người Anh điêng có ý nghĩa gì?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Người trần thuật xưng "tôi" có vai trò gì?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Những dữ liệu thứ cấp về lịch sử của người Anh điêng được thu thập bằng cách nào?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Dữ liệu thứ cấp về lịch sử của người Anh điêng có ý nghĩa gì?
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau:
Pa-ra-na, Nhiệt đới buồn hấp dẫn người đọc bởi tinh tế, bay bổng và phóng khoáng, vừa mang dáng dấp của một cuốn , vừa là một về triết học, , nhân chủng học, vừa rất giàu .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
PA-RA-NA
(Trích Nhiệt đới buồn)
Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt
Trên những dải đất nhìn xuống hai bờ sông Ri-ô Ti-ba-gi (Rio Tibagy) ấy, ở độ cao 1000 mét so với mặt biển, lần đầu tiên tôi đã tiếp xúc với những người hoang dã, trong khi đi theo một trưởng chi nhánh của cơ quan bảo vệ người Anh điêng trong chuyến đi kiểm tra của ông ta.
Vào thời kì phát hiện ra xứ sở này, toàn bộ khu vực nam Bra-xin (Brasil) là nơi trú ngụ của những nhóm người có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa và người ta xếp chung dưới tên gọi là Giê (Gé). Có thể họ đã bị dồn về khu vực này bởi những kẻ xâm lược mới đây nói tiếng Tu-pi (Tupi) đã chiếm giữ toàn bộ dải bờ biển và họ đang chiến đấu chống lại những người này. Được bảo vệ do đã lui vào những vùng khó thâm nhập, người Giê ở nam Bra-xin đã tồn tại trong vài thế kỉ thoát khỏi người Tu-pi, còn người Tu-pi thì nhanh chóng bị đám thực dân xóa sổ. Trong những khu rừng của các bang phía nam: Pa-ra-na và Xan-ta Ca-ta-ri-na (Santa Catarina), những nhóm nhỏ người hoang dã đã tồn tại cho tới thế kỉ XX; có thể còn tồn tại vài nhóm cho tới năm 1935, bị truy đuổi tàn bạo đến mức trong khoảng một trăm năm gần đây nhất họ phải trốn biệt; nhưng phần lớn họ đã bị hao mòn và được chính phủ Bra-xin cho định cư ở nhiều trung tâm vào khoảng năm 1914.
Lúc đầu, người ta cố gắng đưa họ vào đời sống hiện đại. Làng Xao Phe-rô-ni-mô (Sao Feronymo) là nơi đặt cơ sở của tôi, có một xưởng làm khóa, một xưởng cưa, một trường học, một hiệu thuốc. Trạm bưu điện đều đặn nhận được các dụng cụ: rìu, dao, đinh; người ta phân phát quần áo và chăn. Hai mươi năm sau, những ý đồ đó bị hủy bỏ. Bằng việc bỏ mặc những thổ dân tự kiếm sống, cơ quan bảo vệ biểu lộ sự thờ ơ mà chính họ trở thành đối tượng từ phía các cơ quan công quyền (sau đó, họ có lấy lại được ít nhiều quyền lực); do vậy, dù không muốn, họ bị bắt buộc phải thử nghiệm một phương pháp khác, là kích thích thổ dân tìm lại một sáng kiến nào đấy và buộc phải nắm lại việc tự cai trị.
Người thổ dân chỉ giữ lại của trải nghiệm văn minh ngắn ngủi những bộ quần áo Bra-xin, cái rìu, con dao và chiếc kim khâu. Toàn bộ phần còn lại, là thất bại. Người ta đã xây nhà cho họ và họ vẫn sống ở ngoài trời. Người ta cố sức định cư họ trong các ngôi làng, và họ vẫn sống du cư. Giường nằm, họ đã phá ra làm củi đun và nằm ngủ ngay dưới đất. Những đàn bò do chính phủ gửi tới lang thang đâu đó, thổ dân ghê sợ từ chối thịt và sữa bò. Những chiếc chày gỗ chuyển động một cách cơ học bằng cách đổ đầy và trút ra một thùng nước gắn ở đầu một cánh tay đòn bẩy (dụng cụ thường thấy ở Bra-xin gọi là môn-giô-lô (monjolo), và có thể là do người Bồ Đào Nha nhập từ phương Đông vào) mục ruỗng vì chẳng ai dùng đến, giã gạo bằng tay vẫn là cách phổ biến.
Thất vọng lớn cho tôi, như vậy người Anh điêng ở Ti-ba-gi vừa không hoàn toàn là "người Anh điêng thực thụ", vừa, nhất là, không phải là "người hoang dã". Nhưng lột sạch đi khỏi cái chất thơ của họ hình ảnh khờ khạo mà nhà dân tộc học mới vào nghề tạo nên từ những kinh nghiệm sau này của mình, họ đã cho tôi một bài học về sự thận trọng và tính khách quan. Tìm thấy họ kém nguyên vẹn như tôi vẫn hi vọng, tôi sẽ khám phá ra rằng họ bí ẩn hơn là cái vẻ bề ngoài của họ có thể làm cho ta tưởng. Họ minh hoạ đầy đủ cái tình thế xã hội học có xu hướng trở thành độc quyền cho nhà quan sát nửa sau thế kỉ XX, từ "những người nguyên thuỷ" bị áp đặt nền văn minh một cách thô bạo và, một khi vượt qua được mối hiểm hoa mà họ bị coi là đại diện, thì người ta không còn quan tâm đến nữa. Nền văn hóa của họ, một mặt được tạo thành bởi những truyền thống lâu đời đã kháng cự lại ảnh hưởng của người da trắng (như tục nhuộm răng và cà răng, vẫn khá phổ biến trong số họ), mặt khác là những vay mượn từ nền văn minh hiện đại, là một tổng thể độc đáo mà việc nghiên cứu, dù có thể thiếu đi sự ý nhị, lại không hề đặt tôi vào một trường học kém giá trị so với việc nghiên cứu những người Anh điêng thuần chủng mà tôi phải tiếp cận về sau.
Nhưng đặc biệt là, từ khi những người Anh điêng ấy bị phó mặc tự kiếm sống, thì ta chứng kiến một cuộc đảo lộn kì lạ thế cân bằng phù phiếm giữa văn hóa hiện đại và văn hóa nguyên thuỷ. Những lối sống cổ xưa, những kĩ thuật truyền thống tái xuất hiện, nảy sinh từ một quá khứ mà ta sẽ sai lầm khi quên mất sự gần gũi sống động. Ở đâu ra vậy những chiếc chày đá được mài nhẵn tuyệt đẹp tôi đã tìm thấy, trong nhà của người Anh điêng, lẫn lộn giữa những đĩa sắt tráng men, những cùi dìa của cửa hàng bách hóa, và thậm chí - đôi khi - những bộ xương khung của một chiếc máy khâu? Những cuộc trao đổi buôn bán, trong im lặng của rừng già, với những cư dân cùng chủng tộc, nhưng vẫn sống hoang dã, và hoạt động hiếu chiến của họ vẫn còn chặn đường những người khai khẩn thâm nhập một số vùng của Pa-ra-na chăng? Để trả lời, cần phải hiểu chính xác cuộc phiêu lưu đầy sóng gió của ông già Anh điêng Bra-vô (Bravo), bấy giờ đã về hưu ở khu di dân của chính phủ.
Những đồ vật khiến ta trầm tư ấy vẫn còn trong các bộ lạc như là nhân chứng của một thời kì khi người Anh điêng không biết đến nhà ở, quần áo, cũng như vật dụng bằng kim loại. Và trong những kí ức nửa ý thức của con người, những kĩ thuật xưa cũng còn được lưu giữ. Thay vì những que diêm, đã được biết đến rộng rãi nhưng đắt và khó kiếm, người Anh điêng vẫn cứ ưa thích việc quay hay xát mạnh vào nhau hai mẩu gỗ mềm của cái khoan lửa. Và những khẩu súng trường, súng lục cũ kĩ xưa kia do chính phủ phân phát, thường thấy chúng treo trong những ngôi nhà bỏ hoang, trong khi người đàn ông đi săn trong rừng với cây cung và những mũi tên của một kĩ thuật cũng chắc chắn như kĩ thuật của các dân tộc chưa hề biết đến vũ khí nóng. Như vậy những lối sống cổ xưa, bị che phủ sơ sài bởi những nỗ lực của nhà cầm quyền, lại mở đường đi của chúng, cũng chậm rãi, và vững tin như những đoàn người Anh điêng gặp, đi trên những con đường mòn trong rừng, trong khi các mái nhà đổ rụi ở những ngôi làng bỏ hoang.
(Cờ-lốt Lê-vi-Xtơ-rốt, Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 156 - 158)
Văn bản Pa-ra-na đã nêu ra thông điệp gì?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây