Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Tri thức Ngữ văn SVIP
TRI THỨC NGỮ VĂN
1. Tìm hiểu đôi nét về lịch sử văn học Việt Nam
– Văn học Việt Nam là một dòng chảy văn hóa có bề dày lịch sử, bao gồm hai bộ phận lớn: văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian được hình thành và lưu truyền chủ yếu qua hình thức truyền miệng, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần của nhân dân lao động.
– Với hệ thống thể loại phong phú, văn học dân gian Việt Nam bao gồm các thể loại tự sự, trữ tình, hình thức lời nói dân gian. Mỗi thể loại đều góp phần thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan và bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng người Việt.
Câu hỏi:
@205068064989@
Câu hỏi:
@205068065313@
– Văn học viết Việt Nam:
+ Bộ phận văn học này được hình thành và phát triển qua ba bộ phận chính: văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm (kéo dài từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX) và văn học chữ Quốc ngữ (từ đầu thế kỷ XX đến nay). Mỗi bộ phận văn học đều gắn liền với những giai đoạn lịch sử – xã hội nhất định và phản ánh những đặc điểm tư tưởng, tình cảm tiêu biểu của thời đại.
Câu hỏi:
@205068066701@
+ Tùy vào hoàn cảnh lịch sử và điều kiện sáng tác, các tác phẩm văn học viết có xu hướng tập trung vào hai mạch nội dung lớn: tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc – thể hiện qua những tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Phú sông Bạch Đằng,...; cảm hứng nhân đạo – biểu hiện ở sự trân trọng con người, cảm thông với số phận bất hạnh, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, điển hình như Truyền kì mạn lục, Cung oán ngâm khúc, Lục Vân Tiên,...
Câu hỏi:
@205068067372@
+ Trong hệ thống văn học chữ Hán, các thể loại tự sự – bao gồm cả các truyện – chủ yếu được sáng tác bằng văn xuôi. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Thánh Tông di thảo (tương truyền của vua Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ hay Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Ngược lại, trong văn học chữ Nôm, các thể thơ trữ tình cũng như các thể truyện phần lớn được thể hiện bằng văn vần, chủ yếu là thể lục bát hoặc một số thể thơ truyền thống khác.
+ Một điểm khác biệt đáng lưu ý giữa văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm với văn học chữ Quốc ngữ nằm ở quan niệm thẩm mỹ và tư duy sáng tác. Nếu như văn học chữ Hán và chữ Nôm đề cao tính quy phạm, chú trọng vẻ đẹp trang nhã, chuẩn mực và thường sử dụng điển tích, điển cố để biểu đạt tư tưởng thì văn học chữ Quốc ngữ – đặc biệt từ đầu thế kỷ XX trở đi – lại hướng đến việc khám phá cái đẹp mang tính cá nhân, độc đáo, đa dạng và thể hiện tinh thần tự do, sáng tạo của người nghệ sĩ.
2. Tìm hiểu về truyện thơ Nôm
– Truyện thơ Nôm là thể loại tự sự bằng văn vần, được sáng tác bằng chữ Nôm, xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Đây là một hình thức nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, quan niệm đạo đức và những khát vọng của con người trong xã hội phong kiến.
– Xét về hình thức thể thơ:
Câu hỏi:
@205069188481@
– Xét về ngôn ngữ và đặc điểm nghệ thuật, truyện thơ Nôm được phân thành hai dòng chính:
+ Truyện thơ Nôm bình dân: sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, phản ánh rõ nét đời sống, tình cảm và đạo lý dân gian (tiêu biểu như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa,...).
+ Truyện thơ Nôm bác học: sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, giàu tính nghệ thuật, thường thể hiện tư tưởng đạo đức, nhân sinh qua lăng kính của tầng lớp trí thức nho sĩ (tiêu biểu như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu,...).
– Xét theo tác giả, truyện thơ Nôm được chia thành hai nhóm:
+ Truyện thơ Nôm khuyết danh: những tác phẩm không xác định được tác giả cụ thể, thường lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
+ Truyện thơ Nôm hữu danh: những tác phẩm có ghi rõ tên tác giả, thường thuộc về các nhà nho, nhà thơ lớn trong lịch sử văn học dân tộc.
Câu hỏi:
@205068068441@
– Cốt truyện trong truyện thơ Nôm thường vận hành theo một trong hai mô hình cấu trúc tiêu biểu:
+ Mô hình thứ nhất là hội ngộ – tai biến – đoàn viên, tức trình tự từ sự gặp gỡ ban đầu, trải qua biến cố, chia lìa, rồi cuối cùng là sự đoàn tụ viên mãn. Đây là kiểu cốt truyện phổ biến trong nhiều tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu,...
+ Mô hình thứ hai mang tính nhân – quả, thể hiện quan niệm đạo lý dân gian “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác báo”, thường gặp trong các truyện như Quan Âm Thị Kính, Thạch Sanh,...
--> Hai mô hình này không chỉ tạo nên kết cấu mạch lạc cho tác phẩm mà còn góp phần truyền tải những bài học đạo đức, nhân sinh sâu sắc.
– Nhân vật:
+ Trong truyện thơ Nôm thường được tổ chức thành hai tuyến đối lập rõ nét:
Câu hỏi:
@205069323753@
+ Đặc biệt, trong các truyện thơ Nôm mang màu sắc kỳ ảo hoặc phỏng theo truyện cổ tích dân gian còn xuất hiện các nhân vật kỳ ảo – có thể là đồ vật, con vật mang năng lực siêu nhiên, góp phần thúc đẩy diễn biến truyện hoặc thể hiện quan niệm dân gian về công lý và nhân quả.
+ Tính cách, phẩm chất của nhân vật thường được khắc họa thông qua hành động, ngôn ngữ đối thoại, trạng thái tâm lý và cảm xúc – tạo nên những chân dung sống động, gần gũi với đời sống thực.
– Lời thoại trong truyện thơ Nôm giữ vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính cách, nội tâm nhân vật và phát triển cốt truyện. Lời thoại bao gồm:
+ Đối thoại: lời nói qua lại giữa các nhân vật, giúp tái hiện xung đột, mối quan hệ và cá tính từng người.
+ Độc thoại: lời bộc bạch nội tâm, diễn tả tâm trạng, cảm xúc, suy tư cá nhân (còn gọi là độc thoại nội tâm).
Ngoại trừ một số tác phẩm tiêu biểu như Truyện Kiều – nơi lời thoại bao gồm cả đối thoại và độc thoại được khai thác tinh tế, sâu sắc – thì trong phần lớn truyện thơ Nôm, lời thoại chủ yếu là đối thoại, phù hợp với tính chất tự sự dân gian, mang đậm màu sắc kịch tính và gần gũi với hình thức diễn xướng truyền miệng.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây