

Dương Thùy Linh
Giới thiệu về bản thân



































3 phút 20 giây\(=\) 200 giây
Trước hết, em sẽ đồng tình với Tuấn vì việc phá hoại cây xanh là hành động sai trái, ảnh hưởng đến môi trường và cảnh quan chung. Tuy nhiên, em cũng hiểu lo lắng của Mai, vì có thể can ngăn trực tiếp đôi khi sẽ nguy hiểm nếu nhóm bạn kia phản ứng không tốt.
Vì vậy, em sẽ nói với cả hai:
"Chúng ta không thể làm ngơ. Nếu thấy không an toàn để đến gần nhắc nhở, thì mình có thể báo với chú bảo vệ công viên, người lớn gần đó, hoặc gọi cho đường dây nóng của cơ quan chức năng."
Trước hết, em sẽ đồng tình với Tuấn vì việc phá hoại cây xanh là hành động sai trái, ảnh hưởng đến môi trường và cảnh quan chung. Tuy nhiên, em cũng hiểu lo lắng của Mai, vì có thể can ngăn trực tiếp đôi khi sẽ nguy hiểm nếu nhóm bạn kia phản ứng không tốt.
Vì vậy, em sẽ nói với cả hai:
"Chúng ta không thể làm ngơ. Nếu thấy không an toàn để đến gần nhắc nhở, thì mình có thể báo với chú bảo vệ công viên, người lớn gần đó, hoặc gọi cho đường dây nóng của cơ quan chức năng."
Trước hết, em sẽ đồng tình với Tuấn vì việc phá hoại cây xanh là hành động sai trái, ảnh hưởng đến môi trường và cảnh quan chung. Tuy nhiên, em cũng hiểu lo lắng của Mai, vì có thể can ngăn trực tiếp đôi khi sẽ nguy hiểm nếu nhóm bạn kia phản ứng không tốt.
Vì vậy, em sẽ nói với cả hai:
"Chúng ta không thể làm ngơ. Nếu thấy không an toàn để đến gần nhắc nhở, thì mình có thể báo với chú bảo vệ công viên, người lớn gần đó, hoặc gọi cho đường dây nóng của cơ quan chức năng."
Trước hết, em sẽ đồng tình với Tuấn vì việc phá hoại cây xanh là hành động sai trái, ảnh hưởng đến môi trường và cảnh quan chung. Tuy nhiên, em cũng hiểu lo lắng của Mai, vì có thể can ngăn trực tiếp đôi khi sẽ nguy hiểm nếu nhóm bạn kia phản ứng không tốt.
Vì vậy, em sẽ nói với cả hai:
"Chúng ta không thể làm ngơ. Nếu thấy không an toàn để đến gần nhắc nhở, thì mình có thể báo với chú bảo vệ công viên, người lớn gần đó, hoặc gọi cho đường dây nóng của cơ quan chức năng."
Trước hết, em sẽ không cười theo hay đồng tình với các bạn đang trêu chọc. Thay vào đó, em sẽ ủng hộ bạn T bằng cách vỗ tay thật to sau phần thuyết trình và nói:
"Bạn T kể rất hay! Em cũng thấy bố bạn là một người rất đáng ngưỡng mộ. Làm việc vất vả để nuôi gia đình là điều tuyệt vời mà không phải ai cũng làm được."
Sau buổi thuyết trình, nếu có cơ hội, em sẽ nhẹ nhàng nói chuyện với những bạn đã cười, khuyên các bạn rằng:
"Thần tượng là người mà mình ngưỡng mộ thật lòng, không nhất thiết phải là người nổi tiếng. Bố bạn T là người lao động chăm chỉ, có trách nhiệm – như vậy cũng xứng đáng được trân trọng lắm chứ!"
Xác định tên của các kiểu tháp tuổi
- Quần thể A: số lượng cá thể thuộc nhóm tuổi trước sinh sản nhỏ hơn so với nhóm tuổi sinh sản → tháp suy thoái.
- Quần thể B: số lượng cá thể thuộc nhóm tuổi trước sinh sản tương đương so với nhóm tuổi sinh sản → tháp ổn định.
- Quần thể C: số lượng cá thể thuộc nhóm tuổi trước sinh sản lớn hơn nhiều so với nhóm tuổi sinh sản → tháp phát triển.
* Vẽ cấu trúc thành phần nhóm tuổi của các quần thể A, B, C
Quần thể A |
|
Quần thể B |
|
Quần thể C |
|
Trong đó:
- Về bộ máy cai trị: + Chia thành các đơn vị hành chính như châu - quận, dưới đó là huyện + Chính quyền từ cấp huyện trở lên đề do người Hán nắm giữ. - Về kinh tế: + Chiếm ruộng đất để lập thành ấp, trại và bắt dân cày cấy. + Áp đặt tô thuế nặng nề. + Độc quyền buôn bán về sắt và muối. + Bắt dân ta cống nạp nhiều loại vải vóc, sản vật quý. - Về văn hóa xã hội: thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc Việt và tìm cách xóa bỏ những tập quán lâu đời của người Việt. b. So sánh hoạt động kinh tế và tổ chức xã hội giữa vương quốc Phù Nam và vương quốc Chăm-pa: - Điểm giống: + Hoạt động kinh tế chủ yếu tương đồng nhau: trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm; sản xuất hàng thủ công; khai thác các nguồn lợi tự nhiên của rừng và biển; buôn bán bằng đường biển phát triển. + Tổ chức xã hội: Xã hội phân chia thành các tầng lớp chính như: tăng lữ, quý tộc, dân tự do (thương nhân, thợ thủ công). - Điểm khác: + Tổ chức xã hội: Ở Chăm-pa, có một bộ phận nhỏ là nô lệ (phục vụ trong các gia đình quý tộc). Ở Phù Nam không có bộ phận nô lệ.
- Về bộ máy cai trị: + Chia thành các đơn vị hành chính như châu - quận, dưới đó là huyện + Chính quyền từ cấp huyện trở lên đề do người Hán nắm giữ. - Về kinh tế: + Chiếm ruộng đất để lập thành ấp, trại và bắt dân cày cấy. + Áp đặt tô thuế nặng nề. + Độc quyền buôn bán về sắt và muối. + Bắt dân ta cống nạp nhiều loại vải vóc, sản vật quý. - Về văn hóa xã hội: thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc Việt và tìm cách xóa bỏ những tập quán lâu đời của người Việt. b. So sánh hoạt động kinh tế và tổ chức xã hội giữa vương quốc Phù Nam và vương quốc Chăm-pa: - Điểm giống: + Hoạt động kinh tế chủ yếu tương đồng nhau: trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm; sản xuất hàng thủ công; khai thác các nguồn lợi tự nhiên của rừng và biển; buôn bán bằng đường biển phát triển. + Tổ chức xã hội: Xã hội phân chia thành các tầng lớp chính như: tăng lữ, quý tộc, dân tự do (thương nhân, thợ thủ công). - Điểm khác: + Tổ chức xã hội: Ở Chăm-pa, có một bộ phận nhỏ là nô lệ (phục vụ trong các gia đình quý tộc). Ở Phù Nam không có bộ phận nô lệ.
câu 1:
Môi trường là không gian sống thiết yếu của con người và mọi sinh vật trên Trái đất, vì vậy việc bảo vệ môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Khi môi trường bị tàn phá, không chỉ hệ sinh thái bị đe dọa mà sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của con người cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Như trong bài viết về “tiếc thương sinh thái”, chúng ta thấy rõ biến đổi khí hậu không chỉ gây thiệt hại vật chất mà còn gieo rắc nỗi đau tâm lý cho nhiều cộng đồng gắn bó lâu dài với thiên nhiên. Sự mất mát rừng, băng, động vật... không chỉ là mất đi cảnh quan mà còn là mất đi văn hóa, bản sắc và niềm tin vào tương lai. Bảo vệ môi trường không chỉ là hành động chống lại ô nhiễm hay biến đổi khí hậu, mà còn là cách con người giữ gìn chính tâm hồn và bản sắc của mình. Mỗi người, từ những việc nhỏ nhất như tiết kiệm điện, không xả rác bừa bãi, trồng cây xanh... đều có thể góp phần vào công cuộc lớn lao ấy. Bởi chỉ khi môi trường còn trong lành, con người mới thật sự sống hạnh phúc và bền vững.
câu 2:
Trong kho tàng thi ca trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ – những bậc trí giả chọn sống xa rời chốn quan trường, gắn bó với thiên nhiên để giữ gìn phẩm giá và sự thanh cao – luôn là một hình tượng đẹp. Qua hai bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người ẩn sĩ hiện lên với những vẻ đẹp riêng nhưng đều cho thấy khát vọng sống thanh đạm, hòa mình với thiên nhiên và giữ trọn cốt cách thanh cao.
Ở bài "Nhàn", Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa người ẩn sĩ với cuộc sống đơn sơ mà an vui: “Một mai, một cuốc, một cần câu”. Câu thơ mở đầu đã gợi ra nhịp sống nhẹ nhàng, ung dung, gắn liền với lao động tự cung tự cấp và hòa hợp với thiên nhiên. Ẩn sĩ ở đây là người chủ động rời bỏ chốn “lao xao” của cuộc đời, chọn lấy chốn “vắng vẻ” để gìn giữ sự trong sạch tâm hồn. Sự nhàn tản ấy không chỉ là lối sống mà còn là thái độ triết lý: phú quý chỉ như giấc chiêm bao – phù du và hư ảo. Qua đó, ta thấy rõ sự tỉnh táo và bản lĩnh của một trí thức lớn – ẩn sĩ không phải vì bất lực, mà vì sáng suốt lựa chọn con đường phù hợp với lý tưởng nhân sinh.
Trong khi đó, bài thơ của Nguyễn Khuyến lại mang màu sắc thu buồn và gợi ra nét tĩnh lặng, sâu lắng của người ẩn sĩ. Cảnh thu hiện lên với “trời thu xanh ngắt”, “gió hắt hiu”, “nước biếc”, “trăng vào song thưa”… đều gợi ra một không gian thoáng đãng, yên bình, nhưng cũng man mác nỗi cô tịch. Người ẩn sĩ trong bài thơ này hiện lên như một thi sĩ trầm mặc, hòa tan cảm xúc vào cảnh vật, cảm nhận sự vận hành của thiên nhiên để rồi chợt “thẹn với ông Đào” – một bậc ẩn sĩ nổi tiếng của Trung Hoa. Từ đó, ta thấy được chiều sâu tâm hồn: vừa nhạy cảm với cảnh sắc, vừa khiêm nhường, tự soi lại mình.
Điểm giống nhau nổi bật trong hai bài thơ là hình ảnh người ẩn sĩ đều gắn bó mật thiết với thiên nhiên, sống giản dị, thanh bạch và xem thường danh lợi. Cả Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến đều lựa chọn lui về ở ẩn không phải vì chán đời mà là để giữ vững nhân cách, tránh xa vòng xoáy thị phi. Họ tìm thấy sự bình yên, sự tự tại trong chính thiên nhiên – nơi giúp con người thanh lọc tâm hồn và suy ngẫm về lẽ sống. Cả hai đều là biểu tượng cho cốt cách thanh cao của người trí thức xưa, dù ẩn dật nhưng vẫn sáng rực một tấm lòng yêu nước, thương dân.
Dù có sự khác biệt về giọng điệu – một bên là hào sảng, triết lý (Nguyễn Bỉnh Khiêm), một bên là trầm lắng, sâu kín (Nguyễn Khuyến) – nhưng cả hai bài thơ đều gặp nhau ở vẻ đẹp nhân cách của người ẩn sĩ: sống thuận theo lẽ tự nhiên, giữ mình thanh sạch, và không ngừng suy tư về thế sự.
Tóm lại, qua hai bài thơ, hình tượng người ẩn sĩ hiện lên thật đẹp – không chỉ là những con người xa rời bụi trần, mà còn là những trí giả sáng suốt, sống thuận tự nhiên và giữ gìn nhân cách giữa cuộc đời đầy biến động. Đó là hình ảnh đáng trân trọng, vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại hôm nay – thời đại mà con người không ngừng đi tìm sự bình yên, trong trẻo giữa bao lo toan, xô bồ của cuộc sống hiện đại..