

TRIỆU TIẾN CUNG
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1.
Theo bài viết, hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người đã trải qua hoặc tin rằng sẽ xảy ra trong tương lai, do biến đổi khí hậu gây ra, và có mức độ đau buồn giống như khi mất người thân.
Câu 2.
Bài viết trình bày thông tin theo trình tự: giới thiệu khái niệm → giải thích → dẫn chứng minh hoạ → mở rộng và phân tích tác động.
Câu 3.
Tác giả sử dụng các bằng chứng: Công trình nghiên cứu của Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis (2018). Cảm xúc thực tế của người Inuit ở Canada và nông dân Australia. Các trường hợp rừng Amazon cháy và nỗi buồn của tộc người bản địa Brazil. Cuộc thăm dò cảm xúc về biến đổi khí hậu của Caroline Hickman và cộng sự (2021) với trẻ em và thanh thiếu niên ở 10 quốc gia.
Câu 4.
Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu từ góc độ tâm lí học, tập trung vào tác động tinh thần và cảm xúc của con người trước những mất mát về môi trường tự nhiên, thay vì chỉ trình bày về hậu quả vật chất hay chính sách.
Câu 5.
Thông điệp sâu sắc nhất từ bài viết là: Biến đổi khí hậu không chỉ phá huỷ môi trường sống mà còn để lại những vết thương sâu sắc trong tâm hồn con người, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm và hành động cấp bách hơn để cứu lấy Trái Đất.
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là biểu cảm.
Câu 2.
Văn bản gợi nhắc đến các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Andecxen như: Nàng tiên cá, cô bé bán diêm.
Câu 3.
Việc gợi nhắc các tác phẩm của Andecxen có tác dụng: Tạo không khí cổ tích, huyền ảo cho bài thơ, tăng chiều sâu cảm xúc, liên hệ tình yêu và cuộc đời thực với những khát vọng đẹp đẽ nhưng mong manh trong cổ tích.
Câu 4.
Giá trị của biện pháp so sánh trong câu "Biển mặn mòi như nước mắt của em": Gợi cảm xúc buồn thương, thể hiện sự gắn bó giữa thiên nhiên (biển) và tâm trạng con người (nỗi đau, nỗi nhớ của em), tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ.
Câu 5.
Vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở khổ thơ cuối: Giàu lòng yêu thương, luôn tin vào tình yêu dù cuộc đời nhiều bão tố, có tâm hồn đẹp, biết nâng niu và giữ gìn những giá trị tinh thần trong sáng, thuần khiết như ánh lửa của "que diêm cuối cùng".
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là biểu cảm.
Câu 2.
Văn bản gợi nhắc đến các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Andecxen như: Nàng tiên cá, cô bé bán diêm.
Câu 3.
Việc gợi nhắc các tác phẩm của Andecxen có tác dụng: Tạo không khí cổ tích, huyền ảo cho bài thơ, tăng chiều sâu cảm xúc, liên hệ tình yêu và cuộc đời thực với những khát vọng đẹp đẽ nhưng mong manh trong cổ tích.
Câu 4.
Giá trị của biện pháp so sánh trong câu "Biển mặn mòi như nước mắt của em": Gợi cảm xúc buồn thương, thể hiện sự gắn bó giữa thiên nhiên (biển) và tâm trạng con người (nỗi đau, nỗi nhớ của em), tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ.
Câu 5.
Vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở khổ thơ cuối: Giàu lòng yêu thương, luôn tin vào tình yêu dù cuộc đời nhiều bão tố, có tâm hồn đẹp, biết nâng niu và giữ gìn những giá trị tinh thần trong sáng, thuần khiết như ánh lửa của "que diêm cuối cùng".
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là biểu cảm.
Câu 2.
Văn bản gợi nhắc đến các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Andecxen như: Nàng tiên cá, cô bé bán diêm.
Câu 3.
Việc gợi nhắc các tác phẩm của Andecxen có tác dụng: Tạo không khí cổ tích, huyền ảo cho bài thơ, tăng chiều sâu cảm xúc, liên hệ tình yêu và cuộc đời thực với những khát vọng đẹp đẽ nhưng mong manh trong cổ tích.
Câu 4.
Giá trị của biện pháp so sánh trong câu "Biển mặn mòi như nước mắt của em": Gợi cảm xúc buồn thương, thể hiện sự gắn bó giữa thiên nhiên (biển) và tâm trạng con người (nỗi đau, nỗi nhớ của em), tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ.
Câu 5.
Vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở khổ thơ cuối: Giàu lòng yêu thương, luôn tin vào tình yêu dù cuộc đời nhiều bão tố, có tâm hồn đẹp, biết nâng niu và giữ gìn những giá trị tinh thần trong sáng, thuần khiết như ánh lửa của "que diêm cuối cùng".
Câu 1
Bài làm
Môi trường là nền tảng cho sự sống của con người và muôn loài trên Trái Đất. Việc bảo vệ môi trường có vai trò vô cùng quan trọng bởi nó không chỉ duy trì hệ sinh thái cân bằng mà còn bảo đảm chất lượng cuộc sống hiện tại và tương lai. Một môi trường trong lành giúp con người có sức khỏe tốt, tâm hồn thư thái và giảm thiểu những tác động tiêu cực như biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt. Thực tế cho thấy, khi môi trường bị hủy hoại, con người phải đối mặt với nhiều hiểm họa như ô nhiễm không khí, khan hiếm nước sạch, suy giảm đa dạng sinh học và những tổn thương tâm lí sâu sắc. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của các nhà quản lí mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Chúng ta có thể bắt đầu từ những hành động nhỏ như tiết kiệm năng lượng, hạn chế sử dụng túi nilon, trồng cây xanh, phân loại rác thải… Hành động hôm nay chính là sự bảo vệ cho cuộc sống ngày mai, là cách chúng ta thể hiện tình yêu với hành tinh xanh này.
Câu 2
Bài làm
Trong kho tàng thơ ca trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ – những con người từ bỏ chốn quan trường để tìm về cuộc sống an nhàn nơi thôn dã – đã trở thành biểu tượng của trí tuệ, nhân cách và lối sống cao đẹp. Qua bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người ẩn sĩ hiện lên với những vẻ đẹp riêng, song đều phản ánh tâm hồn thanh cao và nhân cách lớn của những nhà thơ.
Trong bài thơ "Nhàn", Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ nên cuộc sống giản dị, an nhiên của một ẩn sĩ. Hình ảnh "một mai, một cuốc, một cần câu" biểu tượng cho lối sống lao động thanh bần, tự cung tự cấp. Ông chủ động "tìm nơi vắng vẻ", tránh xa "chốn lao xao" – ẩn dụ cho cuộc đời danh lợi xô bồ. Cuộc sống của ông gắn với thiên nhiên thuần khiết: "thu ăn măng trúc, đông ăn giá", "xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao". Niềm vui giản đơn ấy phản ánh một quan niệm sống coi thường vật chất, đề cao giá trị tinh thần và sự tự tại. Nhà thơ ví phú quý như "chiêm bao", thể hiện thái độ tỉnh táo, khinh bạc trước vinh hoa.
Trong khi đó, trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ cũng hiện lên giữa thiên nhiên rộng lớn, vắng vẻ. Không gian "trời thu xanh ngắt", "gió hắt hiu", "nước biếc", "song thưa" gợi nên sự tĩnh lặng, thanh sạch. Người ẩn sĩ ở đây sống hoà mình với thiên nhiên, cảm nhận từng chuyển động nhỏ nhất như "mấy chùm hoa năm ngoái", "tiếng ngỗng nước". Tuy nhiên, so với sự ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ẩn sĩ Nguyễn Khuyến có phần trầm tư, u hoài hơn. Khi "nhân hứng cũng vừa toan cất bút", ông lại "thẹn với ông Đào", cho thấy sự tự vấn bản thân trước lối sống ẩn dật – vừa tự hào vừa mang chút ngậm ngùi trước sự ngắn ngủi của kiếp người và cái đẹp.
Cả hai bài thơ đều ngợi ca lối sống ẩn dật, thanh cao và phản ánh quan niệm sống tách biệt với danh lợi. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự an nhiên tuyệt đối, coi thường phú quý, thì Nguyễn Khuyến lại phảng phất nỗi buồn nhân thế, cảm xúc bâng khuâng về cuộc đời và sự phù du của thiên nhiên. Hai hình tượng ẩn sĩ cùng tỏa sáng vẻ đẹp trí tuệ, nhân cách, nhưng cũng cho thấy sắc thái tâm hồn riêng của từng tác giả trong mỗi thời đại.
Qua việc khắc họa hình tượng người ẩn sĩ, hai nhà thơ không chỉ bày tỏ lí tưởng cá nhân mà còn gửi gắm thông điệp về giá trị của tự do nội tâm, của lối sống thuận theo tự nhiên và giữ vững phẩm giá giữa dòng đời nhiễu nhương.