Phạm Nguyễn Minh Nhật

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Phạm Nguyễn Minh Nhật
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Quá trình hình thành cổ dài của hươu cao cổ theo quan điểm của Darwin:

- Quá trình sinh sản đã phát sinh nhiều biến dị sai khác về kích thước cổ giữa các cá thể thuộc loài hươu.

- Những lá non ở dưới thấp hết dần, cá thể hươu nào có cổ dài ăn được lá cây trên cao thì sống sót, còn những cá thể hươu cổ ngắn không ăn được lá cây trên cao thì sẽ chết.

- Qua nhiều thế hệ, đặc điểm cổ dài ngày càng trở nên phổ biến trong quần thể, kết quả hình thành loài hươu cổ dài ăn được lá cây trên cao.

Quá trình hình thành cổ dài của hươu cao cổ theo quan điểm của Darwin:

- Quá trình sinh sản đã phát sinh nhiều biến dị sai khác về kích thước cổ giữa các cá thể thuộc loài hươu.

- Những lá non ở dưới thấp hết dần, cá thể hươu nào có cổ dài ăn được lá cây trên cao thì sống sót, còn những cá thể hươu cổ ngắn không ăn được lá cây trên cao thì sẽ chết.

- Qua nhiều thế hệ, đặc điểm cổ dài ngày càng trở nên phổ biến trong quần thể, kết quả hình thành loài hươu cổ dài ăn được lá cây trên cao.

Quá trình hình thành cổ dài của hươu cao cổ theo quan điểm của Darwin:

- Quá trình sinh sản đã phát sinh nhiều biến dị sai khác về kích thước cổ giữa các cá thể thuộc loài hươu.

- Những lá non ở dưới thấp hết dần, cá thể hươu nào có cổ dài ăn được lá cây trên cao thì sống sót, còn những cá thể hươu cổ ngắn không ăn được lá cây trên cao thì sẽ chết.

- Qua nhiều thế hệ, đặc điểm cổ dài ngày càng trở nên phổ biến trong quần thể, kết quả hình thành loài hươu cổ dài ăn được lá cây trên cao.

câu 1:

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, là kho tàng văn hóa chứa đựng lịch sử và tâm hồn của cả một dân tộc. Trong tiến trình phát triển của đất nước, việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc, cụ thể là tiếng Việt, đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tiếng Việt không chỉ là công cụ truyền đạt tư tưởng mà còn là biểu tượng thiêng liêng của lòng tự hào dân tộc. Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập quốc tế ngày nay, tiếng Việt đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ bị pha tạp và biến dạng. Không khó để nhận ra nhiều bạn trẻ hiện nay sử dụng ngôn ngữ pha trộn tiếng nước ngoài một cách tùy tiện, thậm chí lạm dụng tiếng lóng, ngôn từ lệch chuẩn trong giao tiếp hằng ngày, trên mạng xã hội. Điều này nếu không được kịp thời chấn chỉnh sẽ làm tổn thương đến sự thuần khiết và giàu đẹp vốn có của tiếng Việt. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trước hết là sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn mực, đúng chính tả, đúng ngữ pháp, thể hiện sự tôn trọng đối với tiếng mẹ đẻ. Đồng thời, cần phát huy vẻ đẹp phong phú, tinh tế của tiếng Việt qua việc học tập, đọc sách, trau dồi vốn từ, sử dụng lời nói giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Gia đình, nhà trường và xã hội phải cùng chung tay trong việc giáo dục thế hệ trẻ về ý thức giữ gìn tiếng Việt. Mỗi chúng ta, từ những hành động nhỏ như viết đúng, nói chuẩn, sử dụng ngôn từ lịch sự, đều đang góp phần bảo vệ và phát triển một trong những tài sản quý giá nhất của dân tộc. Bảo vệ tiếng Việt cũng chính là giữ gìn bản sắc và lòng tự hào dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.

câu 2:

Trong hành trình dài của lịch sử dân tộc, có những điều quý giá luôn đồng hành cùng con người Việt Nam như một người bạn tâm tình không thể rời xa. Một trong những báu vật ấy chính là tiếng Việt – tiếng lòng, tiếng đời, tiếng yêu thương ngọt ngào chan chứa. Qua bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân", nhà thơ Phạm Văn Tình đã vẽ nên một bức tranh đầy sức sống về tiếng mẹ đẻ, ca ngợi vẻ đẹp vĩnh hằng, trẻ trung của tiếng Việt trong dòng chảy bất tận của thời gian.

Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã khẳng định nguồn gốc lâu đời và vai trò thiêng liêng của tiếng Việt đối với dân tộc:
"Tiếng Việt chúng mình có từ thời xa lắm
Thuở mang gươm mở cõi dựng kinh thành"
Hình ảnh "gươm mở cõi", "dựng kinh thành" gợi nhắc những trang sử oai hùng của dân tộc thời lập quốc, gợi liên tưởng đến những buổi đầu gian khó, nơi tiếng nói Việt vang lên, đồng hành cùng hành trình mở đất, giữ nước. Tiếng Việt không chỉ đơn thuần là công cụ giao tiếp mà còn là linh hồn của dân tộc, gắn bó mật thiết với từng bước chuyển mình của lịch sử.

Tiếp nối mạch cảm xúc ấy, tác giả dẫn dắt người đọc về những thời kỳ chiến trận:
"Vó ngựa hãm Cổ Loa, mũi tên thần bắn trả
Vẽ nên hồn Lạc Việt giữa trời xanh."
Hình ảnh Cổ Loa, mũi tên thần gợi nhớ về huyền thoại An Dương Vương, biểu tượng cho trí tuệ và tinh thần bất khuất của dân tộc. Tiếng Việt – tiếng nói của cha ông – đã trường tồn qua những cuộc chiến vệ quốc oai hùng, qua từng trang hịch, áng văn bất hủ như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi… Sức mạnh của tiếng Việt không chỉ ở âm vang chiến trận mà còn thấm đẫm trong lòng người dân, trong lời ru, câu hát, trong nỗi lòng đồng bào.

Từ bối cảnh lịch sử, tác giả đưa tiếng Việt trở về đời thường, trong sự gắn bó mật thiết với con người:
"Tiếng Việt ngàn năm trong ta là tiếng mẹ
Là tiếng em thơ bập bẹ hát theo bà..."
Tiếng Việt hiện lên gần gũi, thân thuộc, là tiếng nói đầu tiên em bé cất lên, là câu ru dịu dàng của người bà, người mẹ. Qua từng thế hệ, tiếng Việt đã nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc bằng sự ngọt ngào, ân tình, sâu lắng. Không chỉ là lịch sử hào hùng, tiếng Việt còn là nhịp đập đời thường, là máu chảy trong tim mỗi người Việt Nam.

Bài thơ đặc biệt nhấn mạnh vào sự trẻ trung, tươi mới của tiếng Việt trước mùa xuân của đất nước và thời đại mới:
"Anh lại cùng em bước vào thiên niên kỷ
Bỗng gặp lại quê hương qua lời chúc mặn mà."
Dù trải qua bao thăng trầm, tiếng Việt vẫn vẹn nguyên sức sống, luôn đổi mới để phù hợp với nhịp sống hiện đại. Những lời chúc mừng đầu năm, tấm thiệp thăm hỏi thầy cô, cha mẹ – tất cả đều thấm đượm tiếng Việt ngọt ngào, ấm áp. Bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc như "bánh chưng xanh," "lời chúc ngày Tết," tác giả đã thể hiện vẻ đẹp tươi mới, trẻ trung của tiếng Việt trong nhịp sống hiện đại, giữa sự giao thoa của các nền văn hóa.

Khổ thơ cuối của bài thơ là sự kết tinh cảm xúc, khẳng định sức sống vĩnh hằng của tiếng Việt:
"Tiếng Việt ngàn đời hôm nay như trẻ lại
Bánh chưng xanh, xanh đến tận bây giờ
Bóng chim Lạc bay ngang trời, thả hạt vào lịch sử
Nảy lộc đâm chồi, thức dậy những vần thơ."
Hình ảnh "bóng chim Lạc" bay ngang trời, thả hạt vào lịch sử không chỉ mang tính biểu tượng cao mà còn thể hiện sức sống mãnh liệt của tiếng Việt – như những hạt giống gieo vào lòng đất mẹ, mãi mãi đâm chồi, sinh sôi, làm nên vườn xuân rực rỡ cho dân tộc.

Về nghệ thuật, bài thơ có nhiều điểm sáng tạo đáng chú ý. Thể thơ tự do, câu thơ ngắn, nhịp nhanh, linh hoạt giúp truyền tải dòng cảm xúc sôi nổi, trẻ trung. Tác giả vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa để làm nổi bật hình ảnh tiếng Việt sống động qua các thời kỳ lịch sử và đời sống. Giọng thơ lúc hùng tráng, lúc thiết tha, khi lại vui tươi, hân hoan, tạo nên sự biến hóa nhịp nhàng về cảm xúc. Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa các hình ảnh lịch sử (Cổ Loa, chim Lạc) và hình ảnh đời thường (bánh chưng, thiệp Tết) cũng cho thấy tài năng nghệ thuật của nhà thơ khi gắn kết truyền thống với hiện đại, quá khứ với hiện tại.

Điều đặc biệt nhất là cảm xúc chân thành, niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ xuyên suốt bài thơ. Tác giả không chỉ ngợi ca tiếng Việt từ góc nhìn khách quan mà còn bày tỏ tình cảm cá nhân, lòng biết ơn sâu sắc đối với ngôn ngữ mẹ đẻ. Chính tình yêu ấy đã làm cho từng câu thơ trở nên lay động, truyền cảm và thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc.

Bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" không chỉ là bản tình ca ngợi ca tiếng Việt, mà còn là lời nhắc nhở mỗi người Việt Nam về trách nhiệm thiêng liêng: giữ gìn, phát triển và làm giàu thêm vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ. Trong thời đại hội nhập, khi sự xâm nhập của các ngôn ngữ nước ngoài ngày càng mạnh mẽ, bài thơ như một hồi chuông thức tỉnh, khơi dậy lòng tự tôn dân tộc và tình yêu tiếng Việt sâu sắc trong mỗi chúng ta.

Tiếng Việt - di sản quý báu cha ông để lại - sẽ mãi mãi trường tồn nếu chúng ta biết nâng niu, trân trọng và bồi đắp. Hãy để tiếng Việt trong sáng, mềm mại, chan chứa yêu thương tiếp tục cất cánh bay xa, cùng dân tộc Việt Nam bước tới tương lai rực rỡ.

câu 1:

Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nghị luận

câu 2:

Vấn đề được đề cập trong văn bản là thái độ sử dụng chữ nước ngoài trong các bảng hiệu, báo chí và văn bản ở Hàn Quốc và Việt Nam.

câu 3:

Để làm sáng tỏ luận điểm, tác giả đã đưa ra các lí lẽ và bằng chứng sau:

So sánh việc sử dụng chữ nước ngoài ở Hàn Quốc và Việt Nam. So sánh cách trình bày báo chí
câu 4:

-)thông tin khách quan: "Khắp nơi đều có quảng cáo nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ, đặt dưới chữ Hàn Quốc to hơn phía trên."
-)Ý kiến chủ quan: "Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm.

câu 5:

-) So sánh giữa thực tế ở Hàn Quốc và Việt Nam một cách chi tiết, cụ thể, giúp người đọc dễ dàng nhận thấy sự khác biệt trong việc sử dụng chữ nước ngoài.

-)Sử dụng ví dụ cụ thể từ báo chí và quảng cáo để làm rõ luận điểm của mình.

-)Đưa ra quan điểm cá nhân về việc thái độ tự trọng của một quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, từ đó khuyến nghị cách thức sử dụng chữ nước ngoài hợp lý.