Lê Thị Thanh Xuân

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Lê Thị Thanh Xuân
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1. Hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ, mất mát về mặt tinh thần mà con người trải qua khi chứng kiến hoặc tin rằng sẽ phải chứng kiến sự suy thoái của môi trường do biến đổi khí hậu, tương tự như cảm xúc khi mất người thân.


Câu 2. Bài viết trình bày thông tin theo trình tự diễn dịch: từ khái quát đến cụ thể


Câu 3. Tác giả sử dụng các bằng chứng gồm:

- Nghiên cứu của Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis (2018)

- Lời chia sẻ của người Inuit

- Sự kiện rừng Amazon cháy năm 2019

- Cuộc khảo sát năm 2021 của Caroline Hickman về cảm xúc của giới trẻ toàn cầu.



Câu 4.

Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu từ góc nhìn tâm lý và nhân văn, nhấn mạnh đến ảnh hưởng tinh thần sâu sắc của con người, từ đó tạo sự đồng cảm và thúc đẩy nhận thức cộng đồng.


Câu 5.

Thông điệp sâu sắc nhất là: Biến đổi khí hậu không chỉ hủy hoại môi trường mà còn gây ra khủng hoảng tinh thần sâu sắc cho con người, và điều đó đang xảy ra ở khắp nơi, với tất cả mọi người.



Câu 1:

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến nghiêm trọng, việc bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng hàng đầu đối với toàn nhân loại. Môi trường là nền tảng của sự sống – nơi cung cấp không khí trong lành, nước sạch, thực phẩm và điều kiện để con người tồn tại, phát triển. Khi môi trường bị hủy hoại, không chỉ hệ sinh thái bị đảo lộn mà đời sống con người cũng bị ảnh hưởng nặng nề: thiên tai gia tăng, bệnh tật phát sinh, tâm lý bất ổn như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” đã đề cập trong văn bản. Bảo vệ môi trường không chỉ là hành động cứu lấy thiên nhiên, mà còn là cứu lấy chính mình và các thế hệ tương lai. Đó là trách nhiệm không của riêng ai, đòi hỏi sự thay đổi từ nhận thức đến hành động của mỗi cá nhân. Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhất: hạn chế rác thải nhựa, tiết kiệm năng lượng, trồng cây xanh… Bởi chỉ khi con người sống hài hòa với thiên nhiên, ta mới có thể hướng đến một tương lai bền vững, lành mạnh và an yên.

Câu 2:

Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ thường gắn liền với khát vọng sống thanh cao, thoát khỏi vòng danh lợi. Hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thu (không đề) của Nguyễn Khuyến đã khắc họa hai hình ảnh ẩn sĩ tiêu biểu, tuy có những nét khác biệt, nhưng đều phản ánh một nhân sinh quan đẹp đẽ.


Trong bài thơ “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện hình ảnh người ẩn sĩ qua lối sống tự tại, an nhàn và xa lánh chốn “lao xao”. Hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” mở đầu bài thơ đã phác họa cuộc sống giản dị, gắn bó với thiên nhiên, không vướng bận công danh. Ẩn sĩ ở đây là người dám từ chối vinh hoa, chọn sự “dại” – tức là sống theo lẽ tự nhiên – thay vì sự “khôn” bon chen theo danh lợi. Cuộc sống nơi thôn dã với măng trúc, hồ sen, rượu dưới bóng cây tuy giản dị nhưng đầy đủ, gợi một niềm an vui sâu sắc. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú quý chỉ như “chiêm bao”, và cái đạo sống nhàn chính là con đường để giữ gìn cốt cách thanh cao, bất biến.


Ngược lại, trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người ẩn sĩ hiện lên không qua lời tự bạch mà được gợi qua không gian và tâm trạng. Cảnh thu miền quê hiện ra thanh tĩnh, trong trẻo với “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “bóng trăng vào song thưa”, gợi cảm giác cô tịch, trầm lắng. Người ẩn sĩ trong bài thơ này hòa mình vào thiên nhiên, sống giữa những rung cảm tinh tế, song cũng chất chứa suy tư. Ẩn sĩ ở đây không chỉ là người lánh đục về trong, mà còn là người mang nặng nỗi niềm thời thế. Câu kết “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” bộc lộ cảm giác chưa trọn vẹn với chí lớn ẩn sĩ như Đào Tiềm xưa, đồng thời cho thấy sự khiêm nhường và trăn trở của tác giả trước xã hội đương thời.


Từ hai bài thơ, có thể thấy tuy cùng là hình tượng ẩn sĩ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm nghiêng về sự an nhiên, chủ động lựa chọn lối sống thanh đạm; còn Nguyễn Khuyến lại thiên về cảm xúc nội tâm, vừa yêu thiên nhiên vừa mang nỗi niềm thời cuộc. Cả hai đều thể hiện sự thoát ly cám dỗ vật chất, hướng đến cuộc sống tinh thần thanh cao – một lý tưởng sống đáng quý trong mọi thời đại.


Hình tượng người ẩn sĩ qua hai bài thơ không chỉ là biểu hiện của cá nhân hai tác giả, mà còn là biểu tượng cho cốt cách trí thức xưa: sống thuận theo đạo trời, giữ gìn phẩm giá, và không ngừng suy ngẫm về mối quan hệ giữa con người với xã hội và thiên nhiên. Đó là vẻ đẹp bất hủ của văn học dân tộc.