

Lê Khánh Nhi
Giới thiệu về bản thân



































Trồng đậu nành sau khoai giúp bổ sung và duy trì lượng nitơ trong đất vì rễ đậu có nốt sần chứa vi khuẩn cố định nitơ, chuyển nitơ từ không khí thành dạng cây dùng được, giúp làm giàu đất sau khi khoai đã hút nhiều dinh dưỡng.
a. Trong nuôi cấy liên tục, chất dinh dưỡng được bổ sung thường xuyên và được lấy ra để sản xuất sinh khối, trong khi đó, trong nuôi cấy không liên tục, chất dinh dưỡng không được bổ sung và cũng không được lấy ra.
b. Sự sinh trưởng của quần thể vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy không liên tục gồm 4 pha:
Pha tiềm phát
Pha lũy thừa
Pha cân bằng
Pha suy vong
Câu 1:
Bê-li-cốp không đơn thuần là một con người, mà là một “hiện tượng” của kiểu người tự giam mình trong khuôn khổ, sợ hãi và lẩn tránh cuộc sống thực. Hắn không chỉ mặc áo bành tô dày cộp, đi giày cao su, cầm ô, mà ngay cả tâm hồn cũng thu mình trong những luật lệ, quy tắc cứng nhắc. Hắn sợ sự tự do, sợ những điều mới mẻ, chỉ tin vào mệnh lệnh, chỉ thị, những gì được quy định sẵn. Không dừng lại ở đó, nỗi sợ của hắn còn lây lan, khiến cả thị trấn bị bao trùm bởi sự e dè, lo lắng, không ai dám sống thật với chính mình. Hắn tồn tại như một cái bóng ám ảnh, làm tê liệt tinh thần của những con người xung quanh. Bê-li-cốp chết đi, nhưng "cái bao" của hắn vẫn còn, vẫn quấn chặt lấy xã hội, ràng buộc con người trong sự tù túng. Qua nhân vật này, Sê-khốp không chỉ phê phán một cá nhân mà còn lên án cả một lối sống bảo thủ, thụ động, đồng thời thức tỉnh con người: hãy phá vỡ những "chiếc bao" đang giam cầm chính mình, bởi cuộc sống chỉ thực sự đáng sống khi ta dám bước ra khỏi nó.
Câu 2:
Nếu cuộc đời là một cuốn sách, thì vùng an toàn chính là những trang sách đầu tiên – quen thuộc, dễ đọc nhưng đầy lặp lại. Chỉ khi dám lật giở những trang tiếp theo, ta mới thấy được bao điều kỳ thú mà thế giới dành cho mình. Nhưng nhiều người lại e sợ điều đó, chọn cách quẩn quanh với những gì dễ dàng, bỏ lỡ cơ hội để trưởng thành. Vậy thì, bước ra khỏi vùng an toàn có nghĩa là gì? Đó không phải là hành động liều lĩnh vô nghĩa, mà là một sự lựa chọn dũng cảm để khám phá bản thân và tiến về phía trước.
Con người sinh ra không phải để mãi mãi đứng yên. Một đứa trẻ tập đi không thể cứ ôm lấy vòng tay cha mẹ mà không bước ra thế giới. Một họa sĩ không thể vẽ cả đời chỉ với một gam màu quen thuộc. Một nhà thám hiểm không thể chinh phục chân trời nếu chỉ quanh quẩn trong ngôi làng nhỏ. Việc thử thách bản thân với điều mới mẻ không chỉ giúp ta tích lũy trải nghiệm mà còn mở ra những cánh cửa không ngờ tới. Rất nhiều người từng sợ hãi khi bắt đầu một điều gì đó – một công việc mới, một hành trình xa lạ, một ước mơ lớn – nhưng chỉ khi dám bước đi, họ mới nhận ra bản thân có thể làm được nhiều hơn họ tưởng.
Ngược lại, nếu mãi thu mình trong vùng an toàn, con người sẽ dần trở nên trì trệ. Trong văn abnr'' Người trong bao'', Bê-li-cốp là một kẻ sống giữa đời mà như đã chết, tự nhốt mình trong những nguyên tắc cứng nhắc và kéo cả xã hội vào trạng thái sợ hãi. Hắn không chấp nhận bất cứ điều gì ngoài khuôn khổ, và kết quả là bị chính nỗi sợ của mình nuốt chửng. Một cuộc đời như vậy liệu có đáng sống? Sống mà không dám trải nghiệm, không dám thay đổi thì cũng giống như một con chim tự nhốt mình trong lồng, nhìn bầu trời nhưng không bao giờ dám bay.
Nhìn lại thực tế, rất nhiều người vì sợ thất bại mà không dám thử thách bản thân. Họ chọn một công việc an toàn dù không thực sự yêu thích, ở mãi một thành phố nhỏ dù luôn mong muốn đi xa, giữ những mối quan hệ hời hợt vì sợ bị tổn thương. Họ chấp nhận cuộc sống "ổn định", nhưng thực ra là đang dần đánh mất cơ hội khám phá bản thân. Nếu Steve Jobs không bỏ học để theo đuổi đam mê, có lẽ đã không có Apple. Nếu Elon Musk không mạo hiểm với những ý tưởng "điên rồ", làm sao có Tesla hay SpaceX? Mọi thành công lớn trên thế giới đều bắt đầu từ những con người dám bước ra khỏi vùng an toàn.
Tuy nhiên, bước ra khỏi vùng an toàn không có nghĩa là lao vào nguy hiểm một cách mù quáng. Nó đòi hỏi sự chuẩn bị, kế hoạch và một tinh thần sẵn sàng đối mặt với khó khăn. Không ai có thể ngay lập tức trở nên giỏi giang khi bước vào một lĩnh vực mới, nhưng từng bước nhỏ, từng thử thách vượt qua sẽ tạo nên một phiên bản mạnh mẽ hơn của chính mình.
Hãy nhớ rằng, phía bên ngoài vùng an toàn chính là những điều kỳ diệu mà ta chưa từng chạm tới. Đừng để nỗi sợ bóp nghẹt những ước mơ, cũng đừng để sự an toàn giả tạo giam cầm đôi cánh của chính mình. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta dám bước ra, dám thử và dám sống hết mình.
Câu 1 :Phương thức biểu đạt chính: tự sự.
Câu 2 : Nhân vật trung tâm của đoạn trích là ''Bê-li-cốp''.
Câu 3 : Đoạn trích được kể theo ngôi thứ nhất.Tác dụng:Ngôi kể này giúp câu chuyện trở nên chân thực, sinh động hơn, tạo sự gần gũi với người đọc. Đồng thời, cách kể mang tính chủ quan, thể hiện rõ thái độ và cách nhìn nhận của nhân vật kể chuyện đối với Bê-li-cốp, từ đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Câu 4 : - Những chi tiết miêu tả chân dung nhân vật Bê-li-cốp:
+ Lúc nào cũng đi giày cao su, cầm ô, mặc áo bành tô ấm cốt bông.
+ Các đồ vật như ô, đồng hồ, dao nhỏ đều được đặt trong bao.
+ Khuôn mặt như giấu trong chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên.
+ Đeo kính râm, lỗ tai nhét bông, khi ngồi xe ngựa thì luôn kéo mui lên.
- Ý nghĩa nhan đề "Người trong bao":
+ "Bao" ở đây không chỉ là những vật dụng che chắn mà còn là biểu tượng cho cách sống của Bê-li-cốp: luôn thu mình, sợ hãi, cố hủ trong những quy tắc cứng nhắc, lạc hậu.
+ Hình ảnh "người trong bao" phản ánh lối sống bảo thủ, hẹp hòi, xa rời thực tế, đồng thời cũng là sự phê phán những con người bị giam hãm trong tư tưởng lạc hậu.
Câu 5 (1.0 điểm): Bài học rút ra từ đoạn trích: Phê phán lối sống bảo thủ, khuôn mẫu, sợ hãi xã hội như Bê-li-cốp – một con người tự trói buộc bản thân vào những nguyên tắc cứng nhắc, làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Khuyến khích con người sống cởi mở, mạnh dạn thay đổi, hòa nhập với cộng đồng thay vì trốn tránh hoặc sợ hãi những điều mới mẻ. Lên án những thế lực kìm hãm tự do cá nhân, sự sáng tạo và phát triển của con người, đồng thời đề cao tinh thần đấu tranh chống lại những tư tưởng lạc hậu, trì trệ.
Câu 1:
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Trong "Chiếu cầu hiền tài", ông đã sử dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, thuyết phục để kêu gọi nhân tài ra giúp nước.
Trước hết, Nguyễn Trãi sử dụng lập luận theo trình tự hợp lý. Ông mở đầu bằng việc khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài đối với sự hưng thịnh của đất nước, sau đó nêu ra thực trạng nhân tài bị mai một, không được trọng dụng. Cuối cùng, ông đề xuất giải pháp tiến cử và trọng dụng người hiền.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn sử dụng các dẫn chứng lịch sử về việc vua chúa thời xưa biết trọng dụng nhân tài để củng cố lập luận. Ông nhắc đến những nhân vật như Tiêu Hà, Tào Tham để chứng minh rằng việc tìm kiếm và sử dụng nhân tài là điều kiện quan trọng để đất nước phát triển.
Không chỉ vậy, ông còn sử dụng lời văn chân thành, khiêm nhường, thể hiện rõ mong muốn của nhà vua trong việc chiêu mộ hiền tài. Lối hành văn trang trọng nhưng không xa cách giúp bài chiếu có sức lay động mạnh mẽ.
Nhờ những yếu tố trên, "Chiếu cầu hiền tài"trở thành một áng văn nghị luận mẫu mực, thể hiện tầm nhìn sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Câu 2:
Trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão, nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, Việt Nam đang đối mặt với một vấn đề đáng lo ngại: hiện tượng “chảy máu chất xám.” Đây là tình trạng những người có trình độ cao, đặc biệt là trí thức trẻ, lựa chọn ra nước ngoài sinh sống và làm việc thay vì cống hiến cho đất nước. Thực trạng này đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
“Chảy máu chất xám” là thuật ngữ chỉ sự di cư của những cá nhân có trình độ học vấn cao sang các quốc gia phát triển, nơi họ nhận được đãi ngộ tốt hơn về lương bổng, môi trường làm việc và cơ hội phát triển. Tại Việt Nam, tình trạng này diễn ra mạnh mẽ trong các ngành khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục… Nhiều sinh viên xuất sắc chọn du học và không trở về nước sau khi tốt nghiệp, nhiều chuyên gia, nhà khoa học cũng rời Việt Nam để tìm kiếm môi trường làm việc tốt hơn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám. Trước hết, chính sách đãi ngộ ở Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn. Mức lương và phúc lợi cho nhân lực trình độ cao vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của các nước phát triển, khiến nhiều người không thể đảm bảo cuộc sống ổn định nếu làm việc trong nước. Bên cạnh đó, môi trường làm việc tại Việt Nam đôi khi chưa tạo điều kiện để người tài phát huy hết khả năng của mình. Nhiều nơi vẫn còn tình trạng bảo thủ, cục bộ, thiếu minh bạch trong tuyển dụng và bổ nhiệm, khiến những người có thực lực không có cơ hội thăng tiến.
Ngoài ra, hệ thống nghiên cứu khoa học và giáo dục của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Các trung tâm nghiên cứu chưa được đầu tư đúng mức, điều kiện làm việc còn thiếu thốn, kinh phí cho nghiên cứu còn hạn chế. Trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc… luôn sẵn sàng chào đón nhân tài bằng những chính sách ưu đãi đặc biệt, cung cấp trang thiết bị hiện đại và môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp. Điều này tạo ra sức hút lớn đối với nhân tài Việt Nam.
Hậu quả của hiện tượng chảy máu chất xám là vô cùng nghiêm trọng. Trước hết, Việt Nam bị mất đi nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ thông tin, y học, khoa học kỹ thuật. Điều này khiến đất nước gặp khó khăn trong việc đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, chảy máu chất xám cũng tạo ra sự mất cân bằng trong cơ cấu lao động, khi Việt Nam vừa thiếu nhân tài, vừa thừa lao động phổ thông. Ngoài ra, việc mất đi những cá nhân xuất sắc còn khiến khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước tiên tiến ngày càng lớn, làm giảm khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Trước thực trạng này, Việt Nam cần có những giải pháp kịp thời để giữ chân và thu hút nhân tài. Trước hết, cần cải thiện chính sách đãi ngộ, nâng cao mức lương và các chế độ phúc lợi để những người có trình độ cao có thể yên tâm cống hiến. Bên cạnh đó, cần tạo ra môi trường làm việc chuyên nghiệp, minh bạch, khuyến khích sáng tạo và trọng dụng nhân tài. Đồng thời, cần đầu tư mạnh vào giáo dục và nghiên cứu khoa học, xây dựng các trung tâm nghiên cứu hiện đại, hợp tác với các tổ chức quốc tế để tạo điều kiện cho các nhà khoa học phát huy khả năng ngay tại quê hương. Ngoài ra, chính phủ cũng cần có chính sách thu hút người tài Việt Nam ở nước ngoài trở về làm việc, bằng cách hỗ trợ về tài chính, cơ hội nghề nghiệp và điều kiện sống.
Tóm lại, chảy máu chất xám là một vấn đề đáng lo ngại, nhưng nếu có chiến lược hợp lý, chúng ta hoàn toàn có thể khắc phục. Việc giữ chân và thu hút nhân tài không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là ý thức của toàn xã hội. Một quốc gia muốn phát triển mạnh mẽ phải biết trân trọng và tạo điều kiện tốt nhất cho những người tài năng cống hiến. Nếu Việt Nam sớm cải thiện chính sách và môi trường làm việc, chắc chắn sẽ hạn chế được tình trạng chảy máu chất xám và vươn lên mạnh mẽ trong tương lai.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính : nghị luận.
Câu 2: Chủ thể của bài viết là vua Lê Lợi.
Câu 3:
Mục đích chính của văn bản : Kêu gọi các quan lại tiến cử người hiền tài giúp đất nước, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng việc trọng dụng nhân tài.
Những đường lối tiến cử của người hiền tài được đề cập :
- Các quan lại tiến cử người tại đức lên triều đình.
- Xem sếp Tài Năng và phẩm hạnh để trao chức vụ xứng đáng.
- Người trung tài thì giữ chức nhỏ,người tài đức vẹn toàn thì trao chức lớn
Câu 4:
Dẫn chứng : người viết nhắc đến các vị hiền tài trong lịch sử Trung Hoa như Tiêu Hà, Nguy Vô Tri, Địch Nhân Kiệt, Tiêu Tung,... những người được tiến cử và đã giúp đất nước hưng thịnh.
Nhận xét: dẫn chứng có tính thuyết phục cao, lấy từ lịch sử để chứng minh tầm quan trọng của hiền tài. Các lập luận chặt chẽ, sử dụng những tấm gương cụ thể để khẳng định luận điểm.
Câu 5: Thông qua văn bản, có thể nhận thấy:
-Chủ thể bài viết là người có tầm nhìn xa khi nhận được vai trò quan trọng của hiền tài.
-Trọng dụng nhân tài và mong muốn xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
-Thẳng thắn ,quyết liệt trong việc kêu gọi qua lại tiến cử người giỏi không để bỏ sót nhân tài.
Câu 1:
Sống trong một xã hội ngày càng phát triển, sống chủ động có nghĩa là không chờ đợi cơ hội mà tự mình tạo ra cơ hội, không phụ thuộc vào hoàn cảnh mà biết thích nghi và thay đổi để đạt được mục tiêu. Người sống chủ động luôn có kế hoạch rõ ràng, biết sắp xếp thời gian hợp lý và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Điều này giúp họ nắm bắt cơ hội vượt qua khó khăn và không bị cuốn theo dòng chảy của những công việc khác. Có thể nói đến như trong học tập học sinh cần phải tự tìm tài liệu ,học trước xem trước bài mới thay vì đợi giáo viên giảng dạy. Hay trong cuộc sống mỗi người cần tự rèn luyện sức khỏe thay vì đợi bệnh mới chữa. Ngược lại với những điều đó, những ai thụ động thường rơi vào trạng thái chờ đợi, dễ bị tác động bởi hoàn cảnh ,mất phương hướng khi đối diện với những thách thức. Trong thời đại công nghệ số ,khi mọi thứ thay đổi nhanh chóng, sống chủ động giúp con người không bị tụt lại phía sau, học hỏi từng ngày, thích ghi và phát triển bản thân trong mọi hoàn cảnh. Để rèn luyện lối sống này ,mỗi người cần tụ đặt mục tiêu, kiên trì thực hiện ,không ngại khó khăn và luôn chủ động tìm kiếm cơ hội mới cho bản thân.Chỉ khi đó, chúng ta mới thực sự làm chủ cuộc sống và tiến về phía trước với sự tự tin và bản lĩnh.
Câu 2:
Bài thơ trên là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi, trích từ Bảo kính cảnh giới. Qua đó, tác giả vẽ lên một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thanh bình của làng quê Việt Nam.
Bốn câu đầu miêu tả cảnh sắc thiên nhiên mùa hè đầy sức sống: tám hòe xanh rợp bóng, hoa lựu đỏ rực, sen trong ao bắt đầu tàn, tạo nên sự chuyển mình tinh tế của thời gian. Những hình ảnh này không chỉ thể hiện sự quan sát tinh tế mà còn mang đậm chất thơ, gọi lên một khung cảnh tràn đầy sức sống.
Hai câu tiếp theo các họa âm thanh và nhịp sống nơi thôn quê: chọn cái nhộn nhịp với tiếng" lao xao", ve sầu kêu dân gian trong buổi chiều tà. Những âm thanh ấy làm bức tranh thêm sinh động, gợi cảm giác yên bình nhưng không tĩnh lặng, mà đầy hơi thở cuộc sống.
Hai câu cuối thể hiện lý tưởng giữ vững thái hòa, mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân của Nguyễn Trãi. Hình ảnh " Ngu cầm" tượng trưng cho cảnh đất nước thanh bình, nhân dân hạnh phúc.
Đây là ước mơ và khát vọng sâu sắc của tác giả về một xã hội thịnh vượng ,đời sống nhân dân đầy đủ.
Câu 1: bài thơ trên được viết theo thể thơ 7 chữ.
Câu 2: những hình ảnh về sinh hoạt hàng ngày đạm bạc ,thanh cao của tác giả:một cuốc,một cần câu,ăn măng trúc,ăn giá,tắm hòi sen,tắm ao.
Câu3: Tác dụng: nhấn mạnh cuộc sống giản dị, thanh cao của tác giả không bị ràng buộc bởi danh lợi. Việc lập lại từ " một" thể hiện sự đầy đủ, không tham cầu vật chất xa hoa mà chỉ cần những vật dụng thiết yếu để sống an nhàn.
Câu 4: trong hai câu thơ ,tác giả sử dụng từ đối lập " dại" và " khôn" để bày tỏ quan niệm sống. Ông tự nhận mình "dại" vì chọn nơi "vắng vẻ", tránh xa danh lợi, trong khi người đời cho rằng " khôn" là phải bon chen ở " chốn lao xao" . Tuy nhiên,thực tế, cái " dại" của ông là sự khôn ngoan giúp tâm hồn an nhiên, tự tại không bị cuốn vào danh vọng phù phiếm.
Câu 5: bài thơ cho thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm là người thanh cao ,giản dị. Ông tránh xa danh lợi, coi phú quý như giấc mộng chọn sống hòa mình vào thiên nhiên. Quan niệm sống này thể hiện trí tuệ sâu sắc và bài học về sự buông bỏ để tâm hồn thanh thản.