

Diệp Thanh Hằng
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1 Con người chúng ta chỉ sống một lần duy nhất trên đời, hãy là những đóa hoa nở rộ, cống hiến những điều tốt đẹp nhất cho xã hội bằng sự sáng tạo của mình. Sáng tạo là phát minh ra những thứ mới lạ giúp cho cuộc sống chúng ta trở nên thuận tiện, dễ dàng, hiện đại, tiện nghi hơn để thay thế cho những thứ có sẵn. Sự sáng tạo vô cùng quan trọng và cần thiết trong thời kì phát triển của xã hội hiện nay. Người có sự sáng tạo là những người luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi, phát minh ra những cái hay nhằm mục đích để cuộc sống luôn dễ dàng. Họ luôn muốn tìm ra cái mới để cải thiện những cái cũ, thậm chí là đi trước xu hướng của thời đại.Như giáo sư người Anh Sarah Gilbert trước mối hiểm họa của covid 19, bà đã nghiên cứu và chế tạo thành công vaccine AstraZeneca. Dù đã 59 tuổi nhưng bà luôn là người chăm chỉ làm việc, nghiên cứu từ 4 giờ sáng đến khi tối muộn. Nhờ vậy mà vaccine AstraZeneca được ra đời, hàng triệu người trên thế giới được cứu sống. Qua đó ta cũng thấy quá trình sáng tạo chưa bao giờ là đơn giản, chúng ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn, phải đánh đổi nhiều thứ, là thời gian, công sức, tiền bạc, thế nhưng sau tất cả, thành quả của những sáng tạo ấy lại thật ngọt ngào. Sự sáng tạo giúp con người làm được những điều tưởng như không thể, nó giúp con người vượt qua những khó khăn và rút ngắn được thời gian khi làm việc. Bên cạnh đó, sự sáng tạo khiến cho cuộc sống của con người trở nên tiện ích hơn, không chỉ giải quyết được những nhu cầu cần thiết mà còn khiến cho cuộc sống con người thêm thú vị hơn. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn không ít người có tư duy, lối sống lạc hậu không chịu tiếp thu, sáng tạo để tiến bộ mà cứ ôm khư khư cách nghĩ của mình, những người này đáng bị xã hội phê phán, chỉ trích. Chúng ta được lựa chọn cách sống của mình để phát triển bản thân cũng như giúp ích cho xã hội, hãy sáng tạo trong công việc và cuộc sống để đạt hiệu quả cao nhất cũng như phát triển bản thân mình để trở thành phiên bản tốt nhất.
Câu 2
Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.
Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.
Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.
Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha.
Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả. Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.
Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.
Câu 1 : Kiểu văn bản của ngữ liệu trên là văn bản thông tin.
Câu 2 : Một số hình ảnh, chi tiết cho thấy cách giao thương, mua bán thú vị trên chợ nổi là:
+ Người buôn bán trên chợ Nổi nhóm họp bằng xuồng, người đi mua đến chợ bằng xuồng, ghe.
+ Rao hàng bằng cây bẹo dựng đứng phía trên xuồng nhìn như một cột "ăng - ten" di động.
Có kèn bấm bằng tay (loại kèn nhỏ, bằng nhựa), có kèn đạp bằng chân (loại kèn lớn, còn gọi là kèn cóc).
+ Các ghe bán hàng dạo chế ra cách “bẹo” hàng bằng âm thanh lạ tai của những chiếc kèn: Có kèn bấm bằng tay (loại kèn nhỏ, bằng nhựa), có kèn đạp bằng chân (loại kèn lớn, còn gọi là kèn cóc).
+ Những tiếng rao: Ai ăn chè đậu đen, nước dừa đường cát hôn...? Ai ăn bánh bò hôn...? Những tiếng rao mời mọc nơi chợ nổi, nghe sao mà lảnh lót, thiết tha!
Câu 3 : Tác dụng của việc sử dụng tên các địa danh trong văn bản trên là: liệt kê, đưa ra thêm thông tin.
Câu 4 : Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản trên là: Hình ảnh
- Tác dụng: Hình minh họa trong văn bản giữ vai trò quan trọng. Nó giúp làm rõ được lời thuyết minh trong văn bản và qua đó, giúp văn bản trở nên hấp dẫn và thuyết phục hơn đối với người đọc.
Câu 5 : Suy nghĩ của em về vai trò của chợ nổi đối với đời sống của người dân miền Tây là:
Chợ nổi đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của người dân miền Tây nói riêng và người dân cả nước nói chung cũng như khách du lịch trên toàn thế giới, nó không chỉ là nơi mua bán hàng hóa mà còn là biểu tượng văn hóa độc đáo của vùng đất này. Chợ nổi không chỉ đáp ứng nhu cầu cơ bản về mặt hàng hóa, mà còn là nơi giao lưu, trao đổi văn hóa, kết nối cộng đồng với nhau. Nó thể hiện sự giàu có và đa dạng về nền văn hóa, đồng thời phản ánh tinh thần sáng tạo và lòng tự hào của những người dân miền Tây. Chợ nổi còn là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nghệ sĩ thể hiện trong nhiều tác phẩm nghệ thuật. Tóm lại, vai trò của chợ nổi trong đời sống người dân miền Tây không chỉ là về kinh tế mà còn cả về văn hóa và xã hội.
Trong rễ cây đậu nành có sự cộng sinh giữa rễ cây và vi khuẩn Rhizobium. Quá trình này dựa trên nguyên tắc vi khuẩn chuyển hoá N2 phân tử sang dạng NH3 vừa cung cấp cho đất, vừa cung cấp cho cây. Vì thế chuyển sang trồng đậu nành trên mảnh đất đã trồng khoai trước đó (đất thiếu Nito dạng dễ hấp thụ) thì sẽ bổ sung và duy trì lượng nitrogen trong đất.
a.Môi trường nuôi cấy liên tục là môi trường thường xuyên được bổ sung chất dinh dưỡng và loại bỏ các sản phẩm trao đổi chất.
Môi trường nuôi cấy không liên tục là môi trường không được bổ sung chất dinh dưỡng mới và không được lấy đi các sản phẩm trao đổi chất.
b.Sự sinh trưởng của quần thể vi khuẩn ở các pha trong môi trường nuôi cấy liên tục:
Pha tiềm phát:tổng hợp vật chất chuẩn bị cho pha lũy thừa
Pha lũy thừa:phát triển mạnh mẽ theo tiềm năng ,số lượng tế bào tăng theo lũy thừa và đạt đến cực đại ở cuối pha
Pha cân bằng:dinh dưỡng trong môi trường dần giảm,chất độc hại tăng.Tốc độ sinh trưởng và trao đổi chất giảm.Lượng tế bào sinh ra bằng lượng tế bào chết đi
Pha suy vong:số lượng tế bào ngày càng giảm do chất dinh dưỡng cạn kiệt,chất độc hại tăng lên
Câu 1
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là thuyết minh kết hợp với nghị luận. Bài viết giải thích về tầm quan trọng của việc tuyển chọn hiền tài và nêu lên quan điểm của người viết về cách thức tiến cử người tài.
Câu 2
Chủ thể bài viết là Vua Lê Lợi, người đã ban hành chiếu cầu hiền tài trong năm Kỷ Dậu (1429).
Câu 3
Mục đích chính của văn bản là kêu gọi và thúc đẩy việc tiến cử hiền tài để giúp đất nước thịnh trị. Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản gồm:
- Các quan lại từ tam phẩm trở lên phải tiến cử những người có tài năng, dù là ở triều đình hay ở thôn dã, không phân biệt đã xuất sĩ hay chưa.
- Tặng thưởng và thăng chức cho những người cử được hiền tài.
- Khuyến khích các kẻ sĩ ở xóm làng, thôn dã tự giác tiến cử tài năng mà không cần e ngại, như là một hành động tích cực để phục vụ đất nước.
Câu 4
Để minh chứng cho luận điểm này, người viết đã đưa ra dẫn chứng từ các triều đại xưa, đặc biệt là thời Hán, Đường, với các quan tiến cử những người tài giỏi như Tiêu Hà, Nguy Vô Tri, Địch Nhân Kiệt, Tiêu Tung. Những người này dù tài năng khác nhau nhưng đều được tiến cử và cất nhắc, từ đó góp phần tạo nên sự thịnh trị của quốc gia.
Cách nêu dẫn chứng của người viết rất thuyết phục và sâu sắc, bởi vì các dẫn chứng đều lấy từ lịch sử, từ những triều đại nổi tiếng, nhằm chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của việc tiến cử hiền tài. Qua đó, người viết làm nổi bật tầm quan trọng của việc lựa chọn nhân tài ngay từ đầu trong công cuộc xây dựng đất nước.
Câu 5
Thông qua văn bản, có thể nhận xét về phẩm chất của Vua Lê Lợi như sau:
- Nhạy bén và quan tâm đến việc phát triển đất nước: Vua Lê Lợi hiểu rõ rằng việc tuyển chọn người tài là yếu tố quan trọng để xây dựng đất nước thịnh vượng.
- Cương quyết và sáng suốt: Vua không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà đã ra chiếu lệnh yêu cầu các quan cử hiền tài, thể hiện sự quyết tâm thực hiện những chủ trương đúng đắn.
- Có tư tưởng cầu thị: Vua Lê Lợi khuyến khích mọi tầng lớp, kể cả những người ở thôn dã, không ngần ngại tiến cử tài năng, cho thấy sự cầu thị và sự tìm kiếm những nhân tài khắp nơi để giúp đất nước phát triển
Câu 1
Trong văn bản Chiếu cầu hiền tài, Nguyễn Trãi sử dụng nghệ thuật lập luận sắc sảo để thuyết phục và kêu gọi việc tiến cử người tài, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Trước hết, ông xây dựng một lập luận chặt chẽ và rõ ràng, bắt đầu bằng cách nêu lên mối quan hệ giữa sự thịnh trị của đất nước và việc cử hiền tài. Nguyễn Trãi nhấn mạnh rằng "Được thịnh trị tất ở việc cử hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử", từ đó khẳng định việc lựa chọn nhân tài là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của người lãnh đạo.
Nguyễn Trãi cũng sử dụng nhiều dẫn chứng lịch sử từ các triều đại Hán, Đường để minh chứng cho tính đúng đắn của quan điểm này, từ đó tạo sự tin cậy và thuyết phục người đọc. Ông không chỉ lấy các ví dụ điển hình như Tiêu Hà, Nguy Vô Tri, mà còn khéo léo lồng vào đó những câu chuyện về những nhân vật như Mạo Toại, Nịnh Thích để thể hiện tinh thần cầu hiền của các bậc quân chủ xưa.
Ngoài ra, ông còn kết hợp yếu tố khích lệ, động viên, khi khuyến khích các quan lại và sĩ phu, dù là những người ở nông thôn hay trong triều, cũng không nên ngần ngại tiến cử người tài. Từ đó, Nguyễn Trãi không chỉ nêu ra lý do mà còn kêu gọi hành động cụ thể, thể hiện sự linh hoạt trong cách lập luận của mình, góp phần tạo động lực thúc đẩy việc tiến cử hiền tài.
Câu 2 Suy nghĩ về hiện tượng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam hiện nay
“Chảy máu chất xám” là hiện tượng một số người tài giỏi, có năng lực, kiến thức chuyên môn cao rời bỏ đất nước để tìm cơ hội làm việc và phát triển sự nghiệp ở nước ngoài. Tại Việt Nam hiện nay, hiện tượng này đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đây là vấn đề đang gây ra nhiều lo ngại, bởi nó không chỉ làm giảm nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" là sự thiếu cơ hội và môi trường làm việc tốt tại Việt Nam. Dù nền kinh tế đất nước đã có nhiều bước tiến vượt bậc trong những năm gần đây, nhưng vẫn chưa đủ sức thu hút và giữ chân những người có tài năng. Hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học của chúng ta, mặc dù đã có nhiều cải cách, nhưng vẫn còn thiếu sự kết nối chặt chẽ với thực tế, chưa tạo ra những cơ hội phát triển nghề nghiệp hấp dẫn cho các chuyên gia, nhà khoa học. Hơn nữa, mức lương và đãi ngộ tại các cơ quan, doanh nghiệp trong nước còn chưa đủ để giữ chân những người có trình độ cao.
Ngoài ra, những bất cập trong chính sách và môi trường làm việc tại Việt Nam cũng là yếu tố thúc đẩy tình trạng “chảy máu chất xám”. Nhiều người có trình độ học vấn cao hoặc có tài năng trong các lĩnh vực chuyên môn cảm thấy không được trọng dụng hoặc thiếu cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp. Thực tế là, mặc dù có rất nhiều người tài, nhưng trong hệ thống quan chức và công việc công quyền, việc đề bạt nhân sự vẫn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoài năng lực. Điều này khiến cho những người có tài năng và khát khao cống hiến cảm thấy thất vọng và không có động lực làm việc lâu dài tại Việt Nam.
Một lý do quan trọng khác là môi trường sống và làm việc tại các quốc gia phát triển thường hấp dẫn hơn rất nhiều so với trong nước. Các quốc gia như Mỹ, Canada, Australia, và các nước châu Âu không chỉ có cơ hội nghề nghiệp tốt hơn mà còn có hệ thống giáo dục, y tế, môi trường sống, và phúc lợi xã hội cao hơn. Những yếu tố này tạo nên sức hấp dẫn đối với những người có trình độ cao, khiến họ không ngần ngại lựa chọn ra đi để tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Hậu quả của hiện tượng "chảy máu chất xám" là rất nghiêm trọng đối với sự phát triển của Việt Nam. Khi những người tài năng rời bỏ đất nước, Việt Nam mất đi nguồn nhân lực quý giá, những người có khả năng đóng góp vào các lĩnh vực quan trọng như khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục. Sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia trên trường quốc tế. Đồng thời, hiện tượng này cũng khiến cho nền khoa học và công nghệ của Việt Nam khó phát triển và hòa nhập với xu hướng phát triển chung của thế giới.
Để giải quyết tình trạng này, chúng ta cần phải có những chính sách hiệu quả nhằm tạo ra môi trường làm việc thuận lợi và đãi ngộ xứng đáng cho những người tài năng. Chính phủ cần đẩy mạnh việc cải cách hệ thống giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ, tạo điều kiện cho các chuyên gia, nhà khoa học cống hiến và phát triển sự nghiệp tại quê hương. Ngoài ra, cần xây dựng môi trường làm việc công bằng, minh bạch, khuyến khích sự sáng tạo và đóng góp của mọi người, để những người tài năng cảm thấy được trọng dụng và có cơ hội phát triển.
Hơn nữa, việc hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và giáo dục cũng là một giải pháp quan trọng để giữ chân nhân tài. Chúng ta không thể chống lại xu hướng toàn cầu hóa, nhưng có thể tạo ra những cơ hội hợp tác, giao lưu quốc tế để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao mà không cần phải "xuất khẩu" chúng ra nước ngoài.
Tóm lại, hiện tượng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam hiện nay là một vấn đề cần được giải quyết một cách khẩn cấp. Việc giữ chân và phát triển nguồn nhân lực tài năng trong nước không chỉ là trách nhiệm của chính phủ mà còn là của toàn xã hội. Nếu chúng ta có thể tạo ra một môi trường làm việc và học tập thuận lợi, đầy cơ hội cho những người tài, Việt Nam sẽ không phải đối mặt với hiện tượng này nữa và có thể vươn lên mạnh mẽ trên con đường phát triển.
Đoạn thơ trong tác phẩm Vội vã của Nguyễn Du là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, sinh động và đầy cảm xúc. Mở đầu, hình ảnh "hoè lục đùn đùn tán rợp trương" vẽ lên một cây hoè xanh tươi, tán lá rợp mát, tượng trưng cho sự mát mẻ, yên bình của mùa thu. Tiếp đến, hình ảnh "thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" gợi lên màu sắc rực rỡ, sống động của quả lựu đỏ thắm, làm không gian trở nên đầy sức sống. "Hồng liên trì đã tìn mùi hương" là hình ảnh của những bông hoa sen hồng, tỏa hương thơm ngát, làm không gian thêm phần huyền bí, thanh thoát.
Bên cạnh những hình ảnh thiên nhiên, đoạn thơ cũng đặc biệt chú trọng đến âm thanh, như tiếng "Lao xao chợ cá làng ngư phủ" và "Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương." Những âm thanh này không chỉ mang lại sự sống động cho cảnh vật mà còn gợi lên không khí nhộn nhịp, yên bình của làng quê, làm cho người đọc cảm nhận được sự gần gũi, gắn bó giữa thiên nhiên và cuộc sống con người.
Thông qua những hình ảnh đó, tác giả cũng thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, nơi mà con người không chỉ là người quan sát mà còn là một phần của không gian thiên nhiên ấy. Những âm thanh và màu sắc không chỉ là cảnh vật mà còn là những yếu tố gợi lên cảm xúc, tình yêu thương đối với quê hương, đất nước.
Tóm lại, đoạn thơ là một bức tranh thiên nhiên sống động, vừa có sự tĩnh lặng, vừa có âm thanh rộn rã, phản ánh tình yêu thiên nhiên và con người sâu sắc của Nguyễn Du. Đó là không gian mà con người tìm thấy sự bình yên, hòa quyện với thiên nhiên, với cuộc sống.
Câu 1.
Văn bản được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2.
- Sử dụng thành công nghệ thuật đối
+ Nhấn mạnh sự đối lập giữa hai không gian sống
_ Nơi vắng vẻ: ít người lại qua, không phải cầu cạnh, cũng chẳng phải đua chen, tranh giành với nhau.
->Thiên nhiên tĩnh lặng và trong sạch, con người được nghỉ ngơi và có cuộc sống thanh nhàn.
_ Chốn lao xao: nơi đô thi sầm uất, nhộn nhịp, náo nhiệt, tấp nập
->con người phải đua chen, giành giật, phải luồn cúi cầu cạnh
-> con người phải sống một cuộc sống thủ đoạn, căng thẳng, cuộc sống ẩn chứa rất nhiều nguy hiểm, luôn sống trong thấp thỏm, lo âu, bất an.
+ Nhấn mạnh sự đối lập của dại và khôn, sự đối lập giữa người với ta:
_ Dại: vận vào ta bởi vì ta đang tìm đến nơi vắng vẻ để sống, ta chọn khác với đám đông, khác với thói thường. Nhưng khi hiểu ra thì hóa ra lại không dại. Vì giữa lúc những kẻ lộng thần đang hoành hành, ta tìm về thiên nhiên để có được sự thanh thản.
->Dại mà hóa ra không dại.
_ Khôn vận vào người. Cứ tiếp tục sống cuộc sống đua chen, tranh giành sẽ đánh mất nhân phẩm. Nếu ta cứ sóng ở chốn lao xao ấy sẽ đánh mất mình, tạo nên xã hội đại loạn.
->Khôn mà hóa ra không phải khôn.
Câu 3.
- Nghệ thuật đối: tác giả dựng lên bức tranh tứ bình xuân hạ thu đông
-> Gợi nhịp điệu tuần hoàn của thời gian đều đặn, thong thả.
-> Gợi ra tâm thế chủ động, ung dung, thoải mái khi tác giả hòa hợp nhịp sống của mình với nhịp điệu chảy trôi của thời gian.
- Điệp từ: lặp lại hai lần động từ “ăn” và “tắm”
-> Tất cả những nhu cầu tối thiểu của con người đều được đáp ứng một cách thoải mái, tuần tự mùa nào thức ấy.
-> Thức ăn ở đây là sẵn có, do con người tự làm ra, là thành quả lao động của con người. Đây đều là những sản vật dân dã, là cây nhà lá vườn
- Nơi tắm: hồ, ao -> Sẵn có trong tự nhiên, xung quanh mình, không phải cầu kì tìm kiếm.
=> Cuộc sống đạm bạc, thực sự đạm bạc nhất là khi đó là cuộc sống của một bậc đại quan dưới triều nhà Mạc.
Đạm bạc nhưng không hề khắc khổ. Khắc khổ khiến người ta cảm thấy lo lắng, thiếu thốn. Đây là cuộc sống đạm bạc nhưng thanh cao, giải phóng cho con người, mang đến sự tự do trong cuộc sống.
-> Không phải nhọc công tìm kiếm nên không phải đua chen tranh giành để tìm sự đủ đầy, vinh hoa phú quý.
=>Mang đến sự tự do, ung dung, tự tại, thanh thản, thảnh thơi.
=> Cuộc sống tự do, thảnh thơi, ung dung, tự tại.
Câu 4.
Sống nhàn với Nguyễn Bình Khiêm là chan hòa với thiên nhiên để giữ cốt cách thanh cao.
Câu 5
Qua bài thơ Nhàn Nguyễn bỉnh khiêm đã thể hiện một lối sống hòa hợp thuận theo tự nhiên. Ông ung dung thảnh thơi, lánh xa cuộc sống vật chất tầm thường. Để thể hiện cho sự giản dị trong lối sống của mình Nguyễn Bình khiêm đã sử dụng hàng loạt những sự vật giản dị, gần gũi. Ông ăn những món ăn giản dị, sinh hoạt tuần hoàn theo dòng chảy của thời gian. Mọi nhu cầu cuộc sống của ông dù không thừa nhưng cũng không thiếu. Nhàn đối với ông không chỉ thể hiện ở lối sống hòa hợp với thiên nhiên mà còn ở việc phải rời xa danh lợi để giữ cốt cách thanh cao. Ông tự nhận thấy bản thân mình chọn nơi vắng vẻ, tĩnh lặng đã làm cho tâm hồn trở nên thanh thản. Nguyễn bỉnh khiêm đã thể hiện rằng lối sống nhàn chính là lối sống để giữ gìn nhân cách, tu dưỡng tâm tính. Chính lối sống nhàn đã trở thành một triết lý một phương châm sống trong tâm hồn của ông cũng như là những người đời sau.