Hà Đức Xuân

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Hà Đức Xuân
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

1. Thể thơ: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ tự do, thể hiện qua sự không gò bó về số chữ trong mỗi dòng và cách gieo vần linh hoạt.

2. Từ ngữ tiêu biểu: Trong khổ thơ thứ hai và thứ ba, một số từ ngữ tiêu biểu thể hiện hình ảnh biển đảo và đất nước bao gồm:

“bám biển” gợi lên cuộc sống gắn bó, kiên cường của người dân với biển cả.

“Mẹ Tổ quốc” là hình ảnh nhân hóa đất nước, thể hiện sự thiêng liêng và gần gũi.

3. Biện pháp tu từ so sánh: Trong đoạn thơ, biện pháp so sánh được sử dụng là: “Như máu ấm trong màu cờ nước Việt”.

Tác dụng: So sánh này làm tăng tính biểu cảm, thể hiện tình yêu nước sâu sắc và sự gắn bó máu thịt giữa người dân với Tổ quốc, máu là sự sống, cờ là biểu tượng của quốc gia, sự so sánh này khẳng định Tổ quốc là một phần không thể thiếu của mỗi người dân Việt Nam.

4. Tình cảm của nhà thơ: Đoạn trích thể hiện tình yêu sâu sắc đối với biển đảo và Tổ quốc, sự trân trọng đối với cuộc sống của người dân nơi biển cả, và niềm tự hào về đất nước Việt Nam.

5. Suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ biển đảo:

Đoạn trích khơi gợi trong em lòng yêu nước, yêu biển đảo quê hương. Là một người trẻ, em nhận thấy trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo không chỉ là nhiệm vụ của các chiến sĩ mà còn là của mỗi công dân. Em sẽ tích cực tìm hiểu, tuyên truyền về biển đảo, đồng thời lên án những hành động xâm phạm chủ quyền, góp phần nhỏ bé vào công cuộc bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hoá của nó. “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hoá, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin... Một số trong các di sản đó đã bị phá huỷ lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mỹ. Sự phá huỷ những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá đầy phẫn nộ của chính người Mỹ, Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen, trong một tác phẩm khoa học đầy mùi thuốc nổ và hoá chất độc mang tên Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dươn

Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng

Câu 1: Văn bản thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh nhớ quê hương khi đang ở một vùng đất xa lạ, cụ thể là thành phố San Diego, Mỹ. Nhân vật trữ tình bộc lộ nỗi nhớ quê nhà da diết qua các liên tưởng và suy tư sâu lắng.

Câu 2: Những hình ảnh khiến nhân vật trữ tình ngỡ như quê ta bao gồm: “nắng vàng,” “mây trắng,” và các hình ảnh thiên nhiên giản dị, gần gũi, gợi liên tưởng đến quê hương và những ký ức đẹp đã lưu giữ trong lòng.

Câu 3: Cảm hứng chủ đạo của văn bản là nỗi nhớ quê hương – một tình cảm sâu sắc, thiêng liêng và gần gũi. Đồng thời, văn bản còn thể hiện sự gắn bó với quê nhà và suy tư về văn hóa, con người nơi mình sinh ra.

Câu 4:


Ở khổ thơ đầu, hình ảnh “nắng vàng, mây trắng” được cảm nhận một cách thân thuộc, gợi lên hình bóng quê nhà và những kỷ niệm êm đềm, mang lại cảm giác ấm áp.

Ở khổ thơ thứ ba, những hình ảnh này lại gợi lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung mạnh mẽ hơn, như một sự đối sánh với thực tại lạc lõng nơi đất khách.

Câu 5: Hình ảnh tạo ấn tượng nhất chính là “nắng vàng” và “mây trắng” bởi nó gợi nhớ đến vẻ đẹp dung dị, thanh bình của quê hương. Những hình ảnh này không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên mà còn mang chiều sâu tinh thần, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của nhân vật với cội nguồn.