

Lâm Thị Vi
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Văn bản "Cô làng xén" của tác giả Thạch Lam là một tác phẩm văn học có giá trị cao về nội dung và hình thức. Tác phẩm đã đem lại cho người đọc nhiều cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc về chủ đề và nhân vật trong câu chuyện. Chủ đề của tác phẩm xoay quanh cuộc sống của những người dân làng xén, nơi mà cuộc sống đơn giản, chất phác và gần gũi với thiên nhiên. Tác giả đã mô tả rất chi tiết về cuộc sống của những người dân làng xén, từ những công việc hàng ngày đến những nét đặc trưng của văn hóa và tập quán của họ. Điều này đã giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống của những người dân nông thôn và cảm nhận được sự bình yên, thanh thản của cuộc sống ở nơi đây. Nhân vật chính trong tác phẩm là cô làng xén, một người phụ nữ trung niên sống trong làng xén. Cô là một người rất đặc biệt, có tính cách mạnh mẽ, kiên cường và sáng suốt. Tác giả đã mô tả cô rất chi tiết, từ ngoại hình đến tính cách, qua đó giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật này. Cô là một người rất thông minh và có khả năng quan sát tốt, điều này đã giúp cô giải quyết được nhiều vấn đề trong cuộc sống của mình và giúp đỡ được những người xung quanh. Nét đặc sắc của tác phẩm là sự kết hợp giữa chủ đề và nhân vật. Tác giả đã mô tả rất chi tiết về cuộc sống của những người dân làng xén và nhân vật chính cô làng xén, qua đó giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống của những người dân nông thôn và cảm nhận được sự bình yên, thanh thản của cuộc sống ở nơi đây. Đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu thương và sự đoàn kết giữa con người. Tóm lại, văn bản "Cô làng xén" của tác giả Thạch Lam là một tác phẩm văn học có giá trị cao về nội dung và hình thức. Tác phẩm đã đem lại cho người đọc nhiều cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc về chủ đề và nhân vật trong câu chuyện. Nét đặc sắc của tác phẩm là sự kết hợp giữa chủ đề và nhân vật, giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống của những người dân nông thôn và cảm nhận được sự bình yên, thanh thản của cuộc sống ở nơi đây.
Câu 2:
Niềm tin là yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Niềm tin giúp con người có động lực để tiến về phía trước, vượt qua khó khăn, thử thách. Trong một xã hội đầy biến động, niềm tin không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho bản thân mà còn là cầu nối giữa con người với con người, tạo nên sự đoàn kết, đồng lòng trong cộng đồng.
Niềm tin có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, từ niềm tin vào bản thân, niềm tin vào người khác, đến niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai. Niềm tin vào bản thân là nền tảng của tất cả, giúp con người dám mơ ước, dám hành động để biến ước mơ thành hiện thực. Nếu không có niềm tin vào chính mình, con người sẽ dễ dàng bỏ cuộc trước những khó khăn, thử thách. Niềm tin vào người khác cũng rất quan trọng, vì chúng ta không thể sống một mình trong xã hội này. Mỗi cá nhân đều cần sự hỗ trợ, chia sẻ từ những người xung quanh để có thể phát triển. Hơn nữa, niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai giúp con người không nản lòng trước những thất bại, vấp ngã. Niềm tin ấy như ánh sáng dẫn đường, giúp chúng ta nhận ra rằng dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, một ngày mai tươi sáng vẫn đang chờ đợi.
Tuy nhiên, niềm tin cũng không phải là điều vô điều kiện. Niềm tin phải được xây dựng trên sự chân thành, sự nỗ lực và sự thật. Niềm tin vào người khác chỉ có thể tồn tại khi người đó xứng đáng với niềm tin ấy. Một người nếu luôn làm những điều tốt đẹp, luôn đáng tin cậy sẽ nhận được sự tin tưởng của người khác. Ngược lại, khi niềm tin bị phản bội, con người sẽ cảm thấy tổn thương và khó có thể phục hồi niềm tin vào người khác trong tương lai. Điều này cũng phản ánh một khía cạnh quan trọng của niềm tin – đó là sự bền vững và gắn bó với những giá trị chân thật.
Niềm tin trong xã hội hiện đại đang bị thử thách bởi nhiều yếu tố tiêu cực, từ sự tham nhũng, lừa dối đến sự thiếu trung thực trong cuộc sống. Những yếu tố này làm cho niềm tin giữa con người với con người ngày càng trở nên mong manh. Tuy nhiên, điều quan trọng là mỗi cá nhân vẫn cần duy trì niềm tin vào chính mình, vào khả năng thay đổi và làm điều tốt đẹp. Dù xã hội có như thế nào, nếu mỗi người sống với lòng tin và lạc quan, họ sẽ tạo ra một môi trường tích cực, từ đó lan tỏa niềm tin đến những người xung quanh.
Tóm lại, niềm tin là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Nó là nguồn sức mạnh để con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, niềm tin phải được xây dựng trên nền tảng của sự chân thành và nỗ lực. Chỉ khi đó, niềm tin mới trở nên vững chắc và tạo ra những giá trị tích cực trong cuộc sống.
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là biểu cảm. Xuyên suốt đoạn thơ, tác giả trực tiếp thể hiện tình cảm yêu mến, xót thương đối với mẹ và những suy tư sâu sắc về cuộc đời mẹ.
Câu 2. Hình ảnh đời mẹ được so sánh với những sự vật, hiện tượng sau:
* Bến vắng bên sông: Gợi sự cô đơn, lặng lẽ, nhưng cũng là nơi nương tựa cho những "con thuyền tránh gió" (hình ảnh ẩn dụ cho những đứa con).
* Cây tự quên mình trong quả: Thể hiện sự hy sinh thầm lặng, vô điều kiện của mẹ dành cho con cái. Khi con cái trưởng thành, thành đạt ("quả chín"), người ta thường quên đi công lao của mẹ ("ai dễ nhớ ơn cây").
* Trời xanh nhẫn nại sau mây: Diễn tả sự bao dung, kiên nhẫn của mẹ, luôn âm thầm dõi theo và che chở cho con dù cuộc đời có nhiều khó khăn, vất vả ("mây").
Câu 3. Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ "Quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây" là ẩn dụ và nhân hóa.
* Ẩn dụ: "Quả chín" ẩn dụ cho sự trưởng thành, thành đạt của con cái. "Cây" ẩn dụ cho người mẹ. Câu thơ ngầm nói về việc con cái khi đã trưởng thành thường dễ quên đi công lao dưỡng dục của mẹ.
* Nhân hóa: Gán cho "cây" hành động "quên mình", diễn tả sự hy sinh một cách tự nguyện và lặng lẽ của mẹ.
Tác dụng của biện pháp tu từ này là làm cho hình ảnh thơ trở nên sinh động, gợi cảm, sâu sắc, thể hiện một cách thấm thía sự hy sinh cao cả của người mẹ và đồng thời gợi lên sự day dứt, trăn trở trong lòng người con về đạo làm con.
Câu 4. Hai dòng thơ "Con muốn có lời gì đằm thắm / Ru tuổi già của mẹ tháng năm nay" thể hiện ước muốn sâu sắc của người con muốn dành những lời lẽ dịu dàng, ân cần nhất để an ủi, vỗ về mẹ trong những năm tháng tuổi già. "Đằm thắm" gợi sự chân thành, sâu sắc từ tận đáy lòng. "Ru tuổi già" là một hình ảnh đẹp, thể hiện sự chăm sóc, yêu thương muốn xoa dịu những vất vả, lo toan mà mẹ đã trải qua, mong mẹ có những ngày tháng cuối đời bình yên, hạnh phúc.
Câu 5. Từ đoạn trích trên, tôi rút ra được những bài học sâu sắc về tình mẫu tử và đạo làm con:
* Sự hy sinh cao cả và thầm lặng của mẹ: Cuộc đời mẹ là một chuỗi những hy sinh vô điều kiện dành cho con cái, không mong cầu sự đền đáp.
* Lòng biết ơn và sự trân trọng đối với mẹ: Chúng ta cần luôn ghi nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ và thể hiện sự biết ơn, trân trọng bằng những hành động cụ thể, thiết thực.
* Sự quan tâm và chăm sóc đối với mẹ khi tuổi già: Khi mẹ về già, đây là thời điểm chúng ta cần dành sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt, an ủi, vỗ về để mẹ cảm nhận được tình yêu thương của con cái.
* Sự trân trọng những điều bình dị: Đoạn thơ nhắc nhở chúng ta trân trọng những điều bình dị mà mẹ đã mang lại, những mái ấm gia đình, những sự chở che âm thầm.
Đoạn thơ là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về tình mẹ thiêng liêng và trách nhiệm của mỗi người con.
Câu 1: Bài làm:
Con người chúng ta chỉ sống một lần duy nhất trên đời, hãy là những đóa hoa nở rộ, cống hiến những điều tốt đẹp nhất cho xã hội bằng sự sáng tạo của mình. Sáng tạo là phát minh ra những thứ mới lạ giúp cho cuộc sống chúng ta trở nên thuận tiện, dễ dàng, hiện đại, tiện nghi hơn để thay thế cho những thứ có sẵn. Sự sáng tạo vô cùng quan trọng và cần thiết trong thời kì phát triển của xã hội hiện nay. Người có sự sáng tạo là những người luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi, phát minh ra những cái hay nhằm mục đích để cuộc sống luôn dễ dàng. Họ luôn muốn tìm ra cái mới để cải thiện những cái cũ, thậm chí là đi trước xu hướng của thời đại.Như giáo sư người Anh Sarah Gilbert trước mối hiểm họa của covid 19, bà đã nghiên cứu và chế tạo thành công vaccine AstraZeneca. Dù đã 59 tuổi nhưng bà luôn là người chăm chỉ làm việc, nghiên cứu từ 4 giờ sáng đến khi tối muộn. Nhờ vậy mà vaccine AstraZeneca được ra đời, hàng triệu người trên thế giới được cứu sống. Qua đó ta cũng thấy quá trình sáng tạo chưa bao giờ là đơn giản, chúng ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn, phải đánh đổi nhiều thứ, là thời gian, công sức, tiền bạc, thế nhưng sau tất cả, thành quả của những sáng tạo ấy lại thật ngọt ngào. Sự sáng tạo giúp con người làm được những điều tưởng như không thể, nó giúp con người vượt qua những khó khăn và rút ngắn được thời gian khi làm việc. Bên cạnh đó, sự sáng tạo khiến cho cuộc sống của con người trở nên tiện ích hơn, không chỉ giải quyết được những nhu cầu cần thiết mà còn khiến cho cuộc sống con người thêm thú vị hơn. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn không ít người có tư duy, lối sống lạc hậu không chịu tiếp thu, sáng tạo để tiến bộ mà cứ ôm khư khư cách nghĩ của mình, những người này đáng bị xã hội phê phán, chỉ trích. Chúng ta được lựa chọn cách sống của mình để phát triển bản thân cũng như giúp ích cho xã hội, hãy sáng tạo trong công việc và cuộc sống để đạt hiệu quả cao nhất cũng như phát triển bản thân mình để trở thành phiên bảntốt nhất.
Câu 2: Bài làm:
Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.
Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.
Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.
Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha.
Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả.Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.
Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.
Câu 1: Bài làm:
Con người chúng ta chỉ sống một lần duy nhất trên đời, hãy là những đóa hoa nở rộ, cống hiến những điều tốt đẹp nhất cho xã hội bằng sự sáng tạo của mình. Sáng tạo là phát minh ra những thứ mới lạ giúp cho cuộc sống chúng ta trở nên thuận tiện, dễ dàng, hiện đại, tiện nghi hơn để thay thế cho những thứ có sẵn. Sự sáng tạo vô cùng quan trọng và cần thiết trong thời kì phát triển của xã hội hiện nay. Người có sự sáng tạo là những người luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi, phát minh ra những cái hay nhằm mục đích để cuộc sống luôn dễ dàng. Họ luôn muốn tìm ra cái mới để cải thiện những cái cũ, thậm chí là đi trước xu hướng của thời đại.Như giáo sư người Anh Sarah Gilbert trước mối hiểm họa của covid 19, bà đã nghiên cứu và chế tạo thành công vaccine AstraZeneca. Dù đã 59 tuổi nhưng bà luôn là người chăm chỉ làm việc, nghiên cứu từ 4 giờ sáng đến khi tối muộn. Nhờ vậy mà vaccine AstraZeneca được ra đời, hàng triệu người trên thế giới được cứu sống. Qua đó ta cũng thấy quá trình sáng tạo chưa bao giờ là đơn giản, chúng ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn, phải đánh đổi nhiều thứ, là thời gian, công sức, tiền bạc, thế nhưng sau tất cả, thành quả của những sáng tạo ấy lại thật ngọt ngào. Sự sáng tạo giúp con người làm được những điều tưởng như không thể, nó giúp con người vượt qua những khó khăn và rút ngắn được thời gian khi làm việc. Bên cạnh đó, sự sáng tạo khiến cho cuộc sống của con người trở nên tiện ích hơn, không chỉ giải quyết được những nhu cầu cần thiết mà còn khiến cho cuộc sống con người thêm thú vị hơn. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn không ít người có tư duy, lối sống lạc hậu không chịu tiếp thu, sáng tạo để tiến bộ mà cứ ôm khư khư cách nghĩ của mình, những người này đáng bị xã hội phê phán, chỉ trích. Chúng ta được lựa chọn cách sống của mình để phát triển bản thân cũng như giúp ích cho xã hội, hãy sáng tạo trong công việc và cuộc sống để đạt hiệu quả cao nhất cũng như phát triển bản thân mình để trở thành phiên bảntốt nhất.
Câu 2: Bài làm:
Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.
Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.
Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.
Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha.
Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả.Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.
Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.
Câu 1. Kiểu văn bản của ngữ liệu trên là văn bản thông tin (hoặc văn bản thuyết minh). Văn bản cung cấp các thông tin khách quan, cụ thể về chợ nổi ở miền Tây, từ sự hình thành, các loại hàng hóa, phương thức giao thương độc đáo đến vai trò văn hóa của nó.
Câu 2. Một số hình ảnh, chi tiết cho thấy cách giao thương, mua bán thú vị trên chợ nổi:
* Người buôn bán và người mua đều di chuyển bằng xuồng, ghe, tạo nên một không gian chợ độc đáo trên mặt nước.
* Những chiếc xuồng con len lỏi khéo léo giữa hàng trăm ghe thuyền mà hiếm khi va quệt.
* Sự phong phú của các mặt hàng, từ trái cây, rau củ đến hàng thủ công, gia dụng, thực phẩm, động vật, thậm chí cả những vật dụng nhỏ bé.
* Cách rao hàng độc đáo bằng "cây bẹo": người bán treo các mặt hàng lên cây sào tre cao để thu hút khách từ xa. Hình ảnh những "cột ăng-ten" di động với đủ loại hàng hóa rất đặc trưng.
* Cách rao hàng bằng âm thanh của những chiếc kèn bấm tay, kèn đạp chân, tạo nên những âm thanh đặc biệt trên sông nước.
* Lời rao mời lảnh lót, thiết tha của các cô gái bán đồ ăn thức uống.
Câu 3. Việc sử dụng tên các địa danh (chợ nổi Cái Bè, Cái Răng, Phong Điền, Ngã Bảy, Ngã Năm, Sông Trẹm, sông Vĩnh Thuận) trong văn bản có tác dụng:
* Cung cấp thông tin cụ thể, xác thực: Giúp người đọc hình dung rõ ràng về sự phân bố rộng khắp của các chợ nổi ở miền Tây.
* Tăng tính khách quan và độ tin cậy cho văn bản: Việc liệt kê các địa danh cụ thể cho thấy tác giả đã có sự tìm hiểu, nghiên cứu về chủ đề.
* Gợi mở về sự đa dạng và đặc sắc của từng khu chợ: Mỗi địa danh có thể gắn liền với những đặc trưng riêng của chợ nổi ở khu vực đó.
* Tạo ấn tượng về một vùng sông nước trù phú và sôi động: Sự xuất hiện của nhiều tên chợ nổi cho thấy hoạt động thương mại trên sông nước ở miền Tây diễn ra rất nhộn nhịp.
Câu 4. Tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản là làm tăng tính trực quan, sinh động và hấp dẫn cho nội dung:
* Hình ảnh chợ nổi Ngã Bảy - Hậu Giang: Giúp người đọc hình dung một cách trực tiếp không gian tấp nập, đặc trưng của chợ nổi với những chiếc thuyền chở đầy hàng hóa. Hình ảnh minh họa cho những thông tin được trình bày trong văn bản, giúp người đọc dễ dàng hình dung và cảm nhận hơn về nét văn hóa sông nước miền Tây.
Câu 5. Tôi có suy nghĩ rằng chợ nổi đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của người dân miền Tây, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt văn hóa và xã hội:
* Về kinh tế: Chợ nổi là nơi giao thương, buôn bán hàng hóa quan trọng, tạo ra thu nhập và công ăn việc làm cho rất nhiều người dân địa phương. Nó là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, đặc biệt là đối với các sản phẩm nông nghiệp và đặc sản vùng miền.
* Về văn hóa: Chợ nổi là một nét văn hóa độc đáo, đặc trưng của vùng sông nước miền Tây. Nó thể hiện sự thích ứng tài tình của người dân với môi trường sống sông nước, tạo ra một không gian văn hóa riêng biệt với những hoạt động mua bán, giao tiếp, sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc địa phương. Những cách rao hàng độc đáo, những chiếc thuyền chở đầy ắp sản vật đã trở thành biểu tượng văn hóa của miền Tây.
* Về xã hội: Chợ nổi là nơi giao lưu, gặp gỡ của người dân, góp phần gắn kết cộng đồng. Nó không chỉ là nơi mua bán mà còn là nơi trao đổi thông tin, chia sẻ cuộc sống, thể hiện sự cởi mở, thân thiện của người dân miền Tây.
Tóm lại, chợ nổi không chỉ là một hình thức thương mại mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân miền Tây, cần được bảo tồn và phát triển như một di sản văn hóa quý giá.