

Bùi Tuấn Kiệt
Giới thiệu về bản thân



































Dưới đây là đoạn mã mẫu:
def f(A, B, n):
total = 0
for i in range(n):
At = max(0, A[0][i] - A[1][i])
Bt = max(0, B[0][i] - B[1][i])
total += At + Bt
return total
n = 5
A = [[20, 20, 10, 21, 18],[20, 15, 11, 13, 13]]
B = [[23, 0, 17, 22, 12],[20, 14, 11, 13, 9]]
total = f(A, B, n)
print(total)
TH1. N là số lẻ → Hiển thị luôn kết quả là 0 → T(n) = 3 → O(1).
TH2. N là số chẵn → Thực hiện vòng lặp bên trong khối lệnh IF → Vòng lặp chạy từ 0 đến N+1: \(\sum_{i = 0}^{n} i\)→T(n) = n + 3 → O(n).
Vòng lặp 1: Chọn phần tử nhỏ nhất là 1 (ở vị trí 0). Vì 1 đã ở vị trí đầu tiên, không cần hoán đổi gì → [1, 9, 2, 3, 4, 7, 6, 2]
Vòng lặp 2: Chọn phần tử nhỏ nhất là 2 (ở vị trí 2). Hoán đổi 9 và 2 → [1, 2, 9, 3, 4, 7, 6, 2]
Vòng lặp 3: Chọn phần tử nhỏ nhất là 2 (ở vị trí 7). Hoán đổi 9 và 2 → [1, 2, 2, 3, 4, 7, 6, 9]
Vòng lặp 4: Chọn phần tử nhỏ nhất là 3 (ở vị trí 3). Vì 3 đã ở vị trí đầu tiên của phần chưa được sắp xếp, không cần hoán đổi gì → [1, 2, 2, 3, 4, 7, 6, 9]
Vòng lặp 5: Chọn phần tử nhỏ nhất là 4 (ở vị trí 4). Vì 4 đã ở vị trí đầu tiên của phần chưa được sắp xếp, không cần hoán đổi gì → [1, 2, 2, 3, 4, 7, 6, 9]
Vòng lặp 6: Chọn phần tử nhỏ nhất trong mảng [7, 6, 9] là 6 (ở vị trí 5). Hoán đổi 7 và 6 → [1, 2, 2, 3, 4, 6, 7, 9]
Vòng lặp 7: Chọn phần tử nhỏ nhất trong mảng [7, 9] là 7 (ở vị trí 6). Vì 7 đã ở vị trí đầu tiên của phần chưa được sắp xếp, không cần hoán đổi gì → [1, 2, 2, 3, 4, 6, 7, 9]
Trong guồng quay không ngừng nghỉ của xã hội hiện đại, con người ngày càng phải đối diện với nhiều lựa chọn, nhiều cám dỗ và thử thách. Trong bối cảnh ấy, lý tưởng sống – kim chỉ nam dẫn đường cho hành trình trưởng thành và cống hiến – lại càng trở nên quan trọng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, những người đang và sẽ đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng và phát triển tương lai của đất nước. Lý tưởng sống có thể hiểu là mục tiêu sống cao đẹp mà mỗi người theo đuổi, là khát vọng vươn tới những giá trị chân – thiện – mỹ, vượt lên trên nhu cầu cá nhân thông thường. Đó có thể là mong muốn cống hiến cho cộng đồng, là hoài bão sáng tạo, là ý chí vượt khó vươn lên để làm chủ cuộc sống. Đối với thế hệ trẻ – những người có trí tuệ, có sức lực và tiềm năng lớn – việc hình thành lý tưởng sống không chỉ là điều cần thiết, mà còn là nền tảng để phát triển bền vững trong một xã hội đầy biến động. Thực tế cho thấy, rất nhiều bạn trẻ ngày nay đã và đang nuôi dưỡng những lý tưởng sống tích cực. Không ít người chọn con đường khởi nghiệp, sáng tạo khoa học, làm từ thiện, bảo vệ môi trường hoặc lên tiếng vì công bằng xã hội. Những bạn trẻ ấy không chỉ sống cho bản thân mà còn góp phần vào việc thay đổi xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Những câu chuyện về sinh viên khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng, các tình nguyện viên lên vùng sâu vùng xa hỗ trợ giáo dục hay bác sĩ trẻ xung phong nơi tuyến đầu chống dịch là minh chứng rõ ràng cho tinh thần lý tưởng sống cao cả ấy. Tuy nhiên, bên cạnh những tấm gương đáng ngưỡng mộ, vẫn còn không ít bạn trẻ sống thiếu mục tiêu, chỉ biết chạy theo lối sống hưởng thụ, nổi tiếng ảo trên mạng xã hội, hoặc rơi vào tình trạng chán nản, mất phương hướng. Điều này phần nào bắt nguồn từ sự thiếu định hướng của gia đình, sự giáo dục chưa sâu sắc về lý tưởng sống trong nhà trường, cũng như ảnh hưởng từ mặt trái của mạng xã hội và lối sống thực dụng đang lan rộng. Để lý tưởng sống thực sự trở thành động lực cho thế hệ trẻ, cần có sự đồng hành của gia đình, nhà trường và xã hội. Gia đình nên là nơi gieo mầm những giá trị sống đúng đắn, nhà trường cần dạy học sinh không chỉ tri thức mà cả tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái và ước mơ. Xã hội cần tạo ra môi trường công bằng, nơi tài năng và nỗ lực được công nhận. Quan trọng nhất, bản thân mỗi người trẻ phải tự ý thức được vai trò của mình, dũng cảm theo đuổi ước mơ, dám nghĩ, dám làm, sống có mục đích rõ ràng. Tóm lại, lý tưởng sống là ánh sáng dẫn đường cho người trẻ vượt qua khó khăn, cạm bẫy để vươn tới sự trưởng thành toàn diện. Một thế hệ trẻ có lý tưởng là một thế hệ biết sống đẹp, sống có ích, và chính họ sẽ là những người viết nên tương lai rạng rỡ cho dân tộc. Hãy để mỗi ngày trôi qua là một bước tiến đến gần hơn với lý tưởng sống cao đẹp mà ta đã chọn.
Trong đoạn trích Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Nguyễn Du đã khắc họa Từ Hải như một hình tượng anh hùng lý tưởng. Với ngoại hình phi phàm, “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, Từ Hải hiện lên đầy oai phong, bản lĩnh. Không chỉ có khí chất anh hùng, ông còn là người có chí lớn, dám từ bỏ cuộc sống hạnh phúc riêng để thực hiện hoài bão lập công danh, cứu giúp người lương thiện. Đặc biệt, lời từ biệt với Thúy Kiều vừa thể hiện tấm lòng trân trọng tình cảm, vừa khẳng định bản lĩnh và niềm tin mãnh liệt vào con đường đã chọn. Qua đó, Nguyễn Du không chỉ ngợi ca một con người cụ thể mà còn gửi gắm ước mơ về công lý, về hình mẫu người anh hùng có thể thay đổi cuộc đời. Từ Hải là nhân vật mang vẻ đẹp lý tưởng và khát vọng vượt lên hoàn cảnh – một điểm nhấn đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo và nghệ thuật lãng mạn của Nguyễn Du.
Một số sự sáng tạo của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân khi xây dựng nhân vật Từ Hải là:
- Nguyễn Du miêu tả chi tiết, cụ thể chân dung của Từ Hải theo những nét đẹp ước lệ, tượng trưng - khuôn mẫu tiêu chuẩn vẻ đẹp người anh hùng thời trung đại. - Lược bỏ bớt những chi tiết không được đẹp trong lai lịch của Từ Hải góp phần tôn thêm nét đẹp của nhân vật, tạo thiện cảm với bạn đọc. - Thay vì để cho cuộc gặp gỡ thông qua sự chỉ thị của mụ chủ, Nguyễn Du lại để cho Từ Hải chủ động gửi thiếp danh trước. Chi tiết thể hiện sự lịch thiệp, trang trọng của Từ Hải đồng thời cho thấy Từ Hải cũng rất tôn trọng Thúy Kiều, không coi nàng giống những cô gái lầu xanh khác.
- Xác định được bút pháp được sử dụng: ước lệ, lí tưởng hóa.
- Tác dụng của bút pháp miêu tả ước lệ, lí tưởng hóa: Phác họa chân thực, cụ thể chân dung người anh hùng Từ Hải với những nét đẹp tiêu chuẩn, mực thước của xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện sự trân trọng, ngợi ca, tôn vinh mà tác giả dành cho nhân vật
- Những từ ngữ dùng để chỉ nhân vật Từ Hải: khách biên đình, đấng anh hào, anh hùng, trai anh hùng.
- Những từ ngữ, hình ảnh dùng để miêu tả nhân vật Từ Hải: râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
- Nhận xét về thái độ của tác giả dành cho Từ Hải: trân trọng, ngợi ca, tôn vinh, lí tưởng hóa nhân vật.
Một số điển tích, điển cố trong văn bản là: Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo; mắt xanh; Tấn Dương; Sánh phượng, cưỡi rồng.
Văn bản kể về sự việc Từ Hải tìm gặp Thúy Kiều, thương cho cảnh ngộ và say mê trước tài sắc vẹn toàn của Kiều nên cảm mến mà chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ.