Bàn Thị Thúy

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Bàn Thị Thúy
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Thông điệp: Chiến tranh có thể cướp đi sinh mạng con người, nhưng không thể xóa nhòa tình yêu, ký ức và sự tri ân. Hình ảnh lá thư vương máu gửi cho Hạnh không chỉ là một lời hứa cá nhân mà còn tượng trưng cho những giấc mơ dang dở của người lính. Nó thể hiện sự hy sinh lớn lao, đồng thời nhấn mạnh rằng dù chiến tranh qua đi, những kỷ niệm và tình cảm vẫn mãi tồn tại trong lòng người ở lại.

Vẻ đẹp nổi bật: Tinh thần lạc quan và khát vọng yêu thương giữa chiến tranh Minh mang trong mình một tình yêu đẹp, trong sáng với Hạnh – một cô gái mà anh lý tưởng hóa. Dù chiến tranh đầy nguy hiểm, anh vẫn giữ được sự lãng mạn, tin vào tình yêu và tương lai. Hình ảnh Minh đại diện cho thế hệ trẻ giàu nhiệt huyết, vừa kiên cường chiến đấu, vừa khao khát tình cảm chân thành.

Câu văn: "Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi." Hiện tượng ngôn ngữ: Câu thứ hai có sự phá vỡ quy tắc thông thường khi sử dụng hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa. "Theo gió ra đi" không phải nghĩa đen mà là một cách nói hình ảnh về sự hy sinh của người lính. Thay vì diễn đạt trực tiếp về cái chết, tác giả dùng thiên nhiên (gió) để thể hiện sự ra đi nhẹ nhàng, thiêng liêng. Tác dụng: Tạo cảm xúc sâu lắng, giúp người đọc cảm nhận được sự hy sinh một cách trân trọng. Tránh cách diễn đạt khô khan, giúp câu văn trở nên gợi cảm và giàu chất thơ.

Trong truyện "Sao sáng lấp lánh" của Nguyễn Thị Ám, nhân vật Hạnh để lại ấn tượng sâu sắc nhất với Minh và đồng đội qua hình ảnh đôi mắt sáng lấp lánh. Đây không chỉ là nét đẹp ngoại hình mà còn thể hiện tinh thần kiên cường, niềm tin và sự hy vọng trong hoàn cảnh chiến tranh. Đôi mắt ấy như một ngọn lửa nhỏ thắp sáng lòng yêu nước, khiến những người lính nhớ mãi.

 

Câu 1:Bài thơ Khán “Thiên gia thi” hữu cảm của Nguyễn Ái Quốc thể hiện quan điểm cách mạng về thơ ca, đồng thời phản ánh tinh thần yêu nước và trách nhiệm của người cầm bút.

 

Hai câu thơ đầu nhận xét về thơ ca cổ điển:

 

"Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,

Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong."

 

Tác giả khẳng định thơ xưa thường thiên về ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, lấy sông núi, hoa tuyết, trăng gió làm nguồn cảm hứng chính. Thơ cổ điển hướng đến cái đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, thể hiện tâm hồn thi sĩ trước thiên nhiên. Tuy nhiên, ở thời đại đấu tranh cách mạng, chỉ ca ngợi cái đẹp tự nhiên thôi là chưa đủ.

 

Hai câu sau thể hiện quan điểm về thơ ca hiện đại:

 

"Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,

Thi gia dã yếu hội xung phong."

 

Bác nhấn mạnh thơ ca ngày nay phải có "thép" – tức là phải mạnh mẽ, kiên cường, mang tinh thần đấu tranh. Người làm thơ không chỉ là nghệ sĩ mà còn phải là chiến sĩ, biết "xung phong" trên mặt trận tư tưởng, góp phần cổ vũ nhân dân giành độc lập.

 

Bài thơ vừa thể hiện quan điểm cách mạng về vai trò của thơ ca, vừa khẳng định trách nhiệm của nhà thơ trong thời đại mới. Thơ không chỉ để thưởng thức mà còn phải phục vụ cuộc đấu tranh giành tự do cho dân tộc.

 

 

 

Câu 2:

Trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Học sinh chúng ta có nhiều cơ hội hơn để được trau dồi, tiếp thu kiến thức, mở mang tầm hiểu biết và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, để hoàn thiện bản thân mình hơn trong cách sống cũng như tâm hồn, chúng ta cần phải tích cực tìm hiểu, bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

 

Một thực trạng mà ai cũng nhận thấy đó là xã hội đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người hòa nhập, cởi mở hơn với những nền văn hóa mới của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta lại quên đi, bỏ bê nét đẹp, truyền thống văn hóa của chính đất nước mà chúng ta sinh ra, lớn lên. Nhiều bản sắc đã bị mai một, giới trẻ ngày càng ít quan tâm, tìm hiểu về những truyền thống, bản sắc đó.

 

Từ sự vô tâm, vô tư đó mà những giá trị truyền thống tốt đẹp ngày càng bị mai một dần đi, nhiều bản sắc đã và đang dần mất đi. Những lễ hội, nhưng cuộc thi dân gian không còn nhận được nhiều sự quan tâm của con người hoặc chỉ mang dáng dấp hình thức. Đối với những bạn trẻ hiện nay, họ không quá mặn mà với những truyền thống, bản sắc đó mà họ hướng đến những thứ hướng ngoại hơn, hiện đại hơn. Chính những điều này đã làm con người đánh mất đi giá trị cốt lõi của đất nước mình.

 

Để giải quyết thực trạng trên, mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Bên cạnh đó, nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Học sinh chúng ta cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà. Có như vậy, những bản sắc văn hóa dân tộc mới được giữ gìn và duy trì tốt đẹp.

 

Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm chung của tất cả những con người Việt Nam mang dòng máu đỏ da vàng chúng ta. Chính vì thế, ta cần có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống đó để nó ngày càng đẹp đẽ và phát triển rộng rãi hơn

 

Câu 1: Thể thơ của văn bản trên là thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (4 câu, mỗi câu 7 chữ).

 

Câu 2: Luật của bài thơ:

 

Mỗi câu có 7 chữ (thất ngôn). Câu 1, 2 và 4 đều có vần, các vần điệu trong bài này là vần bằng, cụ thể là vần "yên" trong câu 2 và "phong" trong câu 4. Câu 3 không có vần, như là câu chuyển tiếp.

Câu 3: 

 

Một biện pháp tu từ nổi bật trong bài thơ là đối lập giữa "thơ xưa" và "thơ hiện đại". Cụ thể, trong câu "Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ" (Thơ xưa yêu thiên nhiên đẹp) và "Hiện đại thi trung ưng hữu thiết" (Thơ hiện đại cần có thép), tác giả tạo ra sự đối lập để nhấn mạnh sự khác biệt giữa các thời kỳ và chức năng của thơ ca. Biện pháp này làm nổi bật ý nghĩa là thơ ca phải phản ánh được yêu cầu thực tế của thời đại, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang cần có những đổi mới mạnh mẽ. Sự đối lập này cũng tạo ra sự tương phản rõ rệt giữa cái đẹp lý tưởng và cái mạnh mẽ, thực tiễn.

Câu 4: 

 

Tác giả muốn nhấn mạnh rằng thơ ca hiện đại không chỉ đơn thuần là thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn phải mang tính chất mạnh mẽ, thiết thực, có khả năng phản ánh những vấn đề xã hội, thực tiễn của cuộc sống. Tác giả khẳng định rằng trong thời đại mới, thơ phải có tính chiến đấu, phải tham gia vào các phong trào, giúp con người đối mặt với thử thách và đấu tranh. Vì vậy, tác giả khẳng định thơ ca hiện đại không thể thiếu yếu tố "thép" - một yếu tố của sự mạnh mẽ, kiên cường.

Câu 5: 

 

Cấu tứ của bài thơ khá rõ ràng và mạch lạc, gồm 2 phần đối lập. Phần đầu (câu 1 và câu 2) nói về thơ ca cổ điển, chủ yếu ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, mang tính lý tưởng. Phần thứ hai (câu 3 và câu 4) chuyển sang thơ ca hiện đại, nhấn mạnh vai trò của thơ trong việc phản ánh thực tại xã hội, có tính chất mạnh mẽ và đấu tranh. Sự chuyển tiếp giữa hai phần này hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh sáng tác, phản ánh được tư tưởng của tác giả về vai trò của thơ ca trong từng thời kỳ. Cấu tứ bài thơ vừa giản dị, vừa sâu sắc, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận được sự thay đổi trong quan niệm về thơ ca qua các thời kỳ

Câu 1:thể thơ 6-8( lục bát)

Câu 2: Cụm từ “chín nhớ mười mong” diễn tả nỗi nhớ rất sâu sắc và kiệt sức. Sự so sánh này tìm thấy nỗi nhớ không chỉ đơn thuần là một cảm xúc thoáng qua mà là một trạng thái tâm hồn bình thường trực tuyến, với tốc độ nhớ nhung gấp bội, có thể hiện thực khao khát khao được gặp gỡ, được gần gũi với người mình yêu thích.

Câu 3:Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" là phép nhân hóa. Tác giả đã nhân hóa hình ảnh "Thôn Đoài" như một con người có khả năng cảm nhận và ghi nhớ thương, từ đó tạo ra một không gian tình cảm, tip lên nỗi nhớ giữa hai thôn, có thể hiện sự gắn bó và tình cảm yêu thương giữa con người và quê hương.

Câu 4:Những dòng thơ "Bao giờ bến mới tìm đò? / Hoa khuê các vi giang hồ gặp nhau?" mang đến cho em cảm nhận về sự chờ đợi và khao khát gặp gỡ. Câu hỏi tu từ thể hiện nỗi trăn trở, lo lắng về việc làm không biết bao giờ mới có thể gặp lại người mình yêu. Hình ảnh "bến" và "đò" cùng với "hoa khuê các" và "bướm giang hồ" tạo nên một không gian lãng mạn, nhưng cũng đầy sự xa cách, có thể hiện lên nỗi buồn của người đang yêu.

Câu 5:Nội dung của bài thơ xoay quanh nỗi nhớ nhung, khao khao khát giữa hai người yêu nhau sống ở hai thôn khác nhau. Tác giả có thể hiện tâm trạng của người yêu khi phải chịu đựng sự xa cách, đồng thời cũng có thể hiện tình yêu chân thành và sâu sắc. Bài thơ không chỉ nói về tình yêu đôi chút mà còn tip lên tình cảm gắn bó với quê hương, với những kỷ niệm đẹp đẽ

Câu 1: thể thơ 8 chữ 

Câu 2:chủ đề bài thơ: xoay quanh nỗi đau của con người trong tình yêu . tác giả có thể thực hiện những cơn đau khổ, những chuyến đi mà con người phải trải qua khi yêu sai,khi không tìm dc người phù hợp 

Câu 3  Cấu trúc được tác giả lặp lại nhiều lần trong bài thơ là "Người ta đau khổ vì...". Việc lặp lại này tạo ra nhịp điệu nhất định cho bài thơ, đồng thời nhấn mạnh nỗi đau của người trong tình yêu. Nó cũng có thể hiện ra đa dạng các nguyên nhân gây ra đau khổ, từ việc làm yêu sai người, không biết kiềm chế, cho đến việc cố gắng chen chân vào những mối quan hệ không phù hợp.

Câu 4:Nội dung của bài thơ có thể hiện nỗi đau đớn, xúc tiến của người trong tình yêu. Tác giả chỉ ra rằng tình yêu có thể gây ra nhiều nỗi đau, những tổn thương sâu sắc và những sai lầm trong việc làm mà người yêu thích. Qua đó, tác giả khuyên nhủ con người nên cẩn thận hơn trong tình yêu, không nên cảm xúc dẫn dắt mà quên đi lý trí.

Câu 5:Cảm nhận của tác giả về tình yêu trong bài thơ là bi quan và đầy trăn trở về. Tác giả đã tìm thấy tình yêu không chỉ là niềm vui mà còn là nỗi khổ, cuộc thám hiểm. Tình yêu có thể tạo ra con người mù quáng, dẫn đến những quyết định sai lầm và những tổn thương không đáng có. Tác giả Khuyến cáo rằng con người nên tỉnh táo, cẩn thận hơn trong tình yêu để tránh những cơn đau không cần thiết.